hanhnhinl

New Member

Download Tiểu luận Những yếu tố tâm lý - xã hội trong thực thi pháp luật miễn phí





Nhận thức pháp luật được hình thành bởi mức độ nắm bắt và khả năng phân tích thông tin pháp luật – điều mà không phải ai cũng được trang bị đầy đủ. Đó chính là kiến thức pháp luật, sự am hiểu các thuật ngữ, các phương pháp giải thích, phương pháp logic chuyên ngành Thực thi pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào trình độ văn hoá pháp lý của mỗi công dân, nghĩa là phụ thuộc vào mức độ được thông tin trong lĩnh vực pháp luật[7]. Lẽ dĩ nhiên, những hiểu biết của mỗi cá nhân về các quyền và nghĩa vụ của mình đóng một vai trò quan trọng trong quá trình thực thi pháp luật. Tuy nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng hiểu chính xác từng câu chữ được thể hiện trong văn bản. Bên cạnh đó, những lập luận của một người không có kỹ năng chuyên môn giải thích pháp luật cũng có thể dẫn đến những kết luận không phù hợp.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

NHỮNG YẾU TỐ TÂM LÝ – XÃ HỘI TRONG THỰC THI PHÁP LUẬT
Posted on 08/02/2010 by Civillawinfor
PGS. TS. GORSHUNOV D.N – Khoa Luật, Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Kazan, Liên bang Nga
Quy phạm pháp luật không có hiệu lực một cách tự động theo kiểu “mệnh lệnh – hiệu lực”. Để khơi gợi được sự hưởng ứng theo các yêu cầu đặt ra, trước tiên các quy phạm pháp luật phải đi vào nhận thức, tâm lý của con người và “dấu vết” để lại đó được thể hiện qua những quan điểm, thái độ và những định hướng nhất định của mỗi người. Vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà những quan điểm, thái độ này có thể có những mặt tích cực và cả những khía cạnh tiêu cực. Vấn đề là ở chỗ, cần chuẩn bị cho đối tượng được tiếp cận với pháp luật và hình thành ở họ thái độ đúng đắn đối với pháp luật.
Trong số các biện pháp bảo đảm thực thi pháp luật thì việc dự báo hệ quả xã hội của hiệu lực pháp luật, sự chuẩn bị về mặt lý luận các hướng giải quyết những mâu thuẫn có thể xảy ra trong quá trình thực thi, việc nghiên cứu môi trường hiệu lực của pháp luật là những việc có ý nghĩa rất quan trọng[1]. 
1. Tâm lý và lợi ích cá nhân
Ngay từ thời kỳ trước Cách mạng tháng 10 Nga, trong khoa học pháp lý của Nga đã có quan điểm cho rằng, cần xem xét một cách tổng thể các yếu tố tâm lý cá nhân trong cơ chế thực thi pháp luật như: các lợi ích, nhu cầu, mục đích, nguyện vọng, sự hiểu biết về pháp luật… Trong mọi trường hợp, dù chủ thể thực thi pháp luật là một tập thể hay từng cá nhân, chúng ta đều có thể tìm thấy hành vi của họ nhằm vào việc thực hiện hay liên quan đến việc thực hiện các yếu tố đó[2].
Vì hành vi của con người được hình thành từ những động cơ mang tính chủ quan, nên trong quá trình thực thi pháp luật, bên cạnh các lợi ích, không thể không tính đến mức độ hiểu biết pháp luật, các nhu cầu, nguyện vọng, mục đích của chủ thể. Nhấn mạnh yếu tố chủ quan, Rêsetôv cho rằng: “cần làm sao để mỗi công dân nhận thức được một cách rõ ràng cách thức và biện pháp thực thi các quyền của mình, biết vận dụng chúng và hiểu được mối liên hệ không tách rời giữa quyền và nghĩa vụ. Đây là một kênh cần thiết để củng cố sự thống nhất giữa các lợi ích của nhà nước với lợi ích cá nhân, đồng thời cũng nhằm hoàn thiện quá trình thực thi pháp luật”[3].
Mối liên hệ giữa quá trình và kết quả thực thi pháp luật với tâm lý của con người cũng được Giavadxkaia khẳng định: “Thực thi pháp luật là bằng chứng của sự tin tưởng và ủng hộ của xã hội công dân, của cộng đồng đối với cơ quan lập pháp. Việc xã hội công nhận và ủng hộ pháp luật góp phần hạn chế những phức tạp trong cơ chế thực thi. ở đây muốn nói tới ý thức tự nguyện, sự nhiệt tình của mỗi công dân, của mỗi tổ chức và cộng đồng với việc thực hiện các nghĩa vụ của mình”[4]. Bên cạnh đó, Giavadxkaia còn cho rằng, ý thức coi thường pháp luật dẫn đến hàng loạt những vi phạm pháp luật cũng mang tính chủ quan. Đó là ý thức chống đối (chủ động hay thụ động) của những chủ thể khác nhau, là sự không thừa nhận và coi thường các quy định pháp luật. Tất nhiên là theo đó, cả các cơ chế, mục đích, các biện pháp… được quy định trong luật cũng sẽ không được họ ủng hộ[5].
Theo chúng tôi, nhận định này cần được hoàn chỉnh thêm trong mối tương quan giữa các lợi ích cá nhân và lợi ích chung của cộng đồng. Khi cho rằng nguyên nhân chính cản trở thực thi pháp luật từ phía xã hội là trình độ hiểu biết pháp luật, Giavadxkaia đã quên mất một điều rằng, bộ phận lớn nhất trong xã hội lại không phải là những người có chuyên môn luật. Họ rất xa lạ với những lý thuyết về cơ chế, mục đích và phương tiện thực thi pháp luật. Nguyên nhân của sự xa lánh pháp luật, theo chúng tôi, không chỉ bắt nguồn từ việc không hiểu nội dung luật, mà còn có mâu thuẫn tâm lý rất tự nhiên giữa các quyền lợi. Thông thường, mọi người quan tâm đến việc một văn bản pháp luật sẽ ảnh hưởng như thế nào đến những lợi ích của cá nhân hay lợi ích của một nhóm đối tượng. Trong phần lớn các trường hợp, chủ thể không tiếp nhận một đạo luật và không tự giác thực thi đạo luật đó (ở đây không bao gồm các trường hợp chủ thể thậm chí không biết đến sự tồn tại của văn bản hay cố ý vi phạm một cách công khai) khi theo họ, đạo luật này không đề cập đến những lợi ích cá nhân thiết thực của mình. Vì vậy, những mục đích, lợi ích được thể hiện trong luật và được luật bảo vệ cho dù có thể hiện tính hữu ích đối với xã hội bao nhiêu vẫn không được chủ thể coi trọng (một số quy định của Hiến pháp về nghĩa vụ của công dân, những yêu cầu của Luật liên bang Nga về nghĩa vụ quân sự và phục vụ quân đội, Bộ luật Thuế…). ở đây có thể lấy ví dụ liên quan đến sự “cạnh tranh” về quyền lợi trong pháp luật thuế. Theo ý kiến của Nôvruzôv, thì trên thực tế không tồn tại sự cạnh tranh giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi chung của người nộp thuế. Việc không nộp thuế hay nộp thuế không đầy đủ có thể coi là gắn trực tiếp với quyền lợi riêng của người nộp thuế. Còn nộp thuế để bổ sung ngân quỹ của nhà nước nhằm đảm bảo cho các hoạt động tài chính quốc gia lại thuộc trong phạm vi quyền lợi chung của công dân. Do đó, “mâu thuẫn” giữa các quyền lợi của người nộp thuế có thể phát sinh trong điều kiện nhà nước dùng quyền lực để cố gắng cân bằng lợi ích của mình với lợi ích riêng của người nộp thuế[6].
2. Nhận thức cá nhân và sự trợ giúp
Nhận thức pháp luật được hình thành bởi mức độ nắm bắt và khả năng phân tích thông tin pháp luật – điều mà không phải ai cũng được trang bị đầy đủ. Đó chính là kiến thức pháp luật, sự am hiểu các thuật ngữ, các phương pháp giải thích, phương pháp logic chuyên ngành… Thực thi pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào trình độ văn hoá pháp lý của mỗi công dân, nghĩa là phụ thuộc vào mức độ được thông tin trong lĩnh vực pháp luật[7]. Lẽ dĩ nhiên, những hiểu biết của mỗi cá nhân về các quyền và nghĩa vụ của mình đóng một vai trò quan trọng trong quá trình thực thi pháp luật. Tuy nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng hiểu chính xác từng câu chữ được thể hiện trong văn bản. Bên cạnh đó, những lập luận của một người không có kỹ năng chuyên môn giải thích pháp luật cũng có thể dẫn đến những kết luận không phù hợp.
Chính vì vậy, trong quá trình thực thi pháp luật rất cần có sự tư vấn, trợ giúp của các chuyên gia pháp lý cho người dân, những người luôn gặp phải khó khăn trong việc nhận thức cũng như thực thi các quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của mình. Hơn một trăm năm trước, Shershenevich đã từng viết: “Trong thực tế, có những quy phạm pháp luật được đón nhận một cách rất tự nhiên thông qua giáo dục, đặc biệt là những quy phạm trùng hợp với các quy phạm đạo đức. Có những quy phạm thì người ta tự tìm hiểu bằng chính hiểu biết của mình. Nhưng cũng có những quy định c
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top