Download Tiểu luận Phân định thẩm quyền trong tố tụng hình sự Việt Nam miễn phí





Theo quy định tại Điều 34, Điều 36 của BLTTHS, khi tiến hành tố tụng đối với các vụ án cụ thể, Thủ trưởng (hay Phó thủ trưởng) Cơ quan điều tra, Viện trưởng (hay Phó Viện trưởng) Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn ra các quyết định tố tụng; còn Điều tra viên, Kiểm sát viên trực tiếp thực hiện các biện pháp tố tụng thi hành các quyết định tố tụng đó. Như vậy, về nguyên tắc, Thủ trưởng (hay Phó thủ trưởng) Cơ quan điều tra, Viện trưởng (hay Phó Viện trưởng) Viện kiểm sát có quyền hạn tuyệt đối trong các quyết định tố tụng trên cơ sở hoạt động và đề nghị của Điều tra viên, Kiểm sát viên; và ngược lại, hoạt động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Điều tra viên, Kiểm sát viên lại phụ thuộc vào tính đúng đắn, kịp thời của các quyết định tố tụng do Thủ trưởng (hay Phó thủ trưởng) Cơ quan điều tra, Viện trưởng (hay Phó Viện trưởng) Viện kiểm sát ban hành. Cơ chế tố tụng đó một mặt tạo nên những rào cản ảnh hưởng đến chất lượng, tính kịp thời của hoạt động tố tụng; mặt khác không tạo ra cơ sở rõ ràng về trách nhiệm của Thủ trưởng (hay Phó thủ trưởng) Cơ quan điều tra, Viện trưởng (hay Phó Viện trưởng) Viện kiểm sát với Điều tra viên, Kiểm sát viên đối với kết quả hoạt động tố tụng của mình theo nguyên tắc “quyền hạn đi đôi với trách nhiệm” trong hoạt động nhà nước.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Phân định thẩm quyền trong tố tụng hình sự Việt Nam
1. Đặt vấn đề
Nâng cao trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân; bảo đảm hiệu quả hoạt động và tính độc lập của các cơ quan tư pháp; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân… là những đòi hỏi quan trọng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Đặc biệt, trong hoạt động tư pháp hình sự, nơi mà hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) mang tính quyền lực nhà nước rất cao, nơi mà mọi hoạt động chính đều liên quan lớn đến quyền, lợi ích của công dân thì việc quy định rõ quyền hạn và trên cơ sở đó xác định cụ thể trách nhiệm của người tiến hành tố tụng, có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng, mà còn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng khác.
Trong nhiều năm qua, pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) nước ta đã có nhiều tiến bộ trong việc quy định, phân định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng. Đó là cơ sở pháp lý cho hoạt động TTHS đạt hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều quy định còn bất cập; một số quy định còn vướng mắc trong triển khai thực hiện trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện nay. Những bất cập, vướng mắc đó chủ yếu tập trung ở việc phân định chưa rõ ràng giữa chức năng quản lý hành chính và chức năng tố tụng của những người tiến hành tố tụng như Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, Phó Chánh án Toà án v.v...
Vì vậy, việc nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng nói chung, phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của các chức danh trên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật TTHS và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định đó trong thực tiễn. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã xác định “Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình” là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách tư pháp hiện nay.
2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
Trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003, các văn bản pháp luật TTHS nước ta chưa có điều khoản quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng nói chung, của thủ trưởng các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Trách nhiệm, quyền hạn của những người này được quy định trong từng chế định cụ thể như trong áp dụng biện pháp cưỡng chế; trong khởi tố; điều tra; truy tố; xét xử vụ án hình sự; trong thi hành án hình sự… Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của luật TTHS, tuỳ theo bối cảnh kinh tế - xã hội, cách tổ chức bộ máy nhà nước, nhận thức và sự phát triển chung của xã hội mà phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng có khác nhau.
Giai đoạn sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập cho đến khi Hiến pháp năm 1959 được ban hành
Trong bối cảnh Nhà nước công nông vừa mới ra đời và cuộc kháng chiến lâu dài của đất nước, hoạt động xét xử các vụ án hình sự trong giai đoạn này chủ yếu do các Toà án quân sự, các Toà án binh thực hiện với sự buộc tội của Uỷ viên Chính phủ trên cơ sở điều tra của Quân pháp. Các Toà án quân sự, các Toà án binh không phải là các cơ quan thường trực, mà là Toà án sự việc, được hình thành để xét xử từng vụ án cụ thể; các Chánh án, Uỷ viên Chính phủ thực hiện việc buộc tội thường là kiêm nhiệm. Hơn nữa, pháp luật TTHS giai đoạn này còn rất sơ sài… Cho nên, có rất ít văn bản pháp luật quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của người tiến hành tố tụng. Các quy định pháp luật nói Chánh án là nói đến Chủ tọa phiên toà. Vì vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng được đề cập hoàn toàn là nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng.
Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1988 - ban hành Bộ luật TTHS
Theo quy định của Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 và các văn bản pháp luật khác, hệ thống các cơ quan tư pháp bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án đã được hình thành và hoạt động thường xuyên, có nề nếp theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, giai đoạn này nước ta chưa có BLTTHS; hoạt động tố tụng được thực hiện trên cơ sở các luật tổ chức và văn bản hướng dẫn đơn lẻ của cơ quan có thẩm quyền như Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao…
Liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng nói chung, đặc biệt là của người quản lý Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, pháp luật tố tụng giai đoạn này có đặc điểm:
Thứ nhất, chưa có các văn bản cụ thể quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng;
Thứ hai, chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa chức năng quản lý hành chính và chức năng tố tụng. Đặc điểm này thể hiện tương đối rõ nét đối với Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra (vốn là bộ phận cơ quan hành pháp) và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát;
Thứ ba, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án chịu trách nhiệm tổ chức hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; có nhiệm vụ, quyền hạn ra các quyết định tố tụng quan trọng (trừ việc ra các phán quyết về vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử theo nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo pháp luật). Những người tiến hành tố tụng khác, nhất là Điều tra viên, Kiểm sát viên chỉ thực hiện các hoạt động tố tụng theo sự phân công của Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Viện trưởng Viện kiểm sát.
Quy định của BLTTHS năm 1988
BLTTHS năm 1988 là bộ luật đầu tiên pháp điển hoá các quy định của pháp luật trước đó về trình tự, thủ tục tố tụng đối với việc giải quyết vụ án hình sự; về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ của các cơ quan tiến hành tố tụng; về quyền, nghĩa vụ tố tụng của những người tham gia tố tụng.
BLTTHS năm 1988 hầu như kế thừa pháp luật TTHS trước đó về thẩm quyền của những người tiến hành tố tụng. Trong BLTTHS chưa có quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm c
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top