Download Tiểu luận Quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với khối tài sản chung miễn phí
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là trường hợp chia tài sản đặc biệt. Vì vậy, vợ chồng có thể thỏa thuận hay yêu cầu tòa án chia toàn bộ hay một phần tài sản chung:
- Nếu chia toàn bộ tài sản chung thì phần của mỗi người sau khi chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc quyền sở hữu riêng của mỗi người.
- Nếu chia một phần tài sản trong khối tài sản chung thì chỉ có một phần tài sản đã được chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia mới là tài sản riêng của mỗi người. Phần tài sản chung còn lại không chia vẫn thuộc khối tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì những thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi bên vợ, chồng là tài sản riêng của vợ chồng.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
Chế độ tài sản chung của vợ chồng được qui định tại các Điều 27, 28 Luật HN&GĐ năm 2000 là chế độ tài sản pháp định với hình thức chế độ cộng đồng tạo sản (tài sản mà vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung, trừ những tài sản theo qui định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng). Về nguyên tắc, khi hôn nhân còn tồn tại thì tài sản chung cũng vẫn còn tồn tại, chế độ tài sản này chỉ chấm dứt khi hôn nhân chấm dứt về mặt pháp lý (ly hôn; một bên vợ, chồng chết hay bị Toà án tuyên bố là đã chết).Tuy nhiên, trên thực tế nhiều cặp vợ chồng muốn được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (có thể xuất phát từ mâu thuẫn giữa vợ chồng trong quản lý sử dụng, định đoạt tài sản chung xuất phát từ mâu thuẫn về tình cảm, song họ không muốn ly hôn nhưng muốn được độc lập về tài sản để tránh phát triển mâu thuẫn và được độc lập trong cuộc sống…)
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất.
Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình quy định về tài sản chung của vợ chồng. Theo đó, việc xác định tài sản chung của vợ chồng phải dựa vào nguồn gốc phát sinh tài sản. Cụ thể tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản sau:
- Tài sản do vợ chồng làm ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời kì hôn nhân;
- Thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ, chồng có được hay tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của pháp luật;
- Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được thu nhập bằng thu nhập nói trên;
- Tài sản mà vợ chồng được tặng, cho chung hay thừa kế chung;
- Tài sản mà vợ hay chồng có trước khi kết hôn hay những tài sản mà vợ hay chồng được thừa kế riêng hay tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân nhưng đã thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung theo pháp luật quy định là tài sản chung.
Như vậy, tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng do vợ, chồng tạo ra bằng công sức của mỗi người từ khi họ kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt và những tài sản khác do vợ chồng thỏa thuận hay do pháp luật quy định. Cơ sở pháp lý để xác định nhưng tài sản phải đăng ký quyền sở hữu là tài sản chung của vợ chồng chính là giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản có ghi tên của cả vợ và chồng.
Đối với tài sản chung của vợ chồng thì vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt (khoản 2 Điều 219 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Như vậy, về nguyên tắc, vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau trong việc xây dựng, phát triển và duy trì khối tài sản, đồng thời họ cũng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Đảm bảo cho vợ chồng cùng nhau xây dựng gia đình và lao động tạo ra tài sản vì lợi ích chung của gia đình. Những quy định đó còn là cơ sở trong việc chia tài sản chung của vợ chồng.
2. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.
Xuất phát từ tình hình thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình, đồng thời cũng nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của vợ chồng về vấn đề tài sản, luật hôn nhân và gia đình quy định các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng. Như chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ, chồng chết và chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn. Chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại là quy định mới của Luật hôn nhân và gia đình 1986 và Luật hôn nhân và gia đình 2000 so với Luật hôn nhân và gia đình năm 1959.
Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân:
“1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hay có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận”.
Quy định này được áp dụng từ Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Tuy nhiên, cho đến nay các án kiện mà vợ chồng yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không nhiều. Đó là do tính chất của quan hệ hôn nhân. Vợ chồng chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ là trường hợp đặc biệt ngoại lệ.
1. Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
- Một số trường hợp vì lý do kinh doanh buôn bán mà vợ chồng cần “chớp thời cơ” để đạt được hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, liên quan đến tài vốn mà người vợ hay người chồng không đủ dùng vào công việc đầu tư kinh doanh, buôn bán; khi sử dụng tài sản chung, phía người chồng hay người vợ kia lại không đồng ý sử dụng vào công việc kinh doanh, buôn bán đó do không nhận thức được công việc làm ăn của người vợ hay người chồng mình hay vì lý do nào đó. Người vợ hay người chồng đã yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân với mục đích lấy phần tài sản của mình trong khối tài sản chung để làm vốn đầu tư kinh doanh. Mặt khác, quy định này còn nhằm bảo vệ lợi ích gia đình, bảo đảm cuộc sống ổn định của các thành viên trong gia đình tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động đầu tư kinh doanh gây ra.
- Trường hợp vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng (như trước khi kết hôn hay trong thời kỳ hôn nhân, người vợ hay người chồng đó đã vay nợ (một khoản tiền hay tài sản) sử dụng vào nhu cầu riêng). Nếu tài sản riêng không có hay không đủ mà vợ chồng không thỏa thuận được về việc lấy tài sản chung để trả nợ riêng cho một bên thì vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để người vợ, chồng lấy phần tài sản của mình trong khối tài sản chung của vợ chồng nhằm thanh toán món nợ mà mình đã vay của người khác.
Quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân còn nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng về tài sản của mỗi bên vợ, chồng cũng như quyền lợi của những người khác có liên quan tới tài sản của vợ chồng.
- Trường hợp có lý do chính đáng khác: Việc xác định có lý do chính đáng để chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại là xuất phát từ lợi ích của gia đình, lợi ích của vợ chồng hay của người thứ ba. Vì vậy, lý do chính đáng khác để chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tồn tại tùy từng trường hợp khác nhau.
Xuất phát từ thực tế đời sống xã hội: có một số trường hợp vì lý do nào đó, vợ chồng dù có mâu thuẫn sâu sắc, nhưng không muốn ly hôn mà chỉ muốn ra ở riêng và có yêu cầu chia tài sản chung (như vợ ch
Tags: luật văn quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong trong việc định định đoạt tài sản chung, Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc định đoạt tài sản chung., Chế độ pháp lý về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, binh luận vè quyền va nghia vụ của vo va chong, tiểu luận về chia tài sản chung vợ chồng, nghĩa vụ của vợ và chồng đồi với tài sản chung, 1.3 Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tiểu luận về tài sản chung của vợ chồng