Download Tiểu luận Trợ cấp thất nghiệp và liên hệ với Việt Nam miễn phí
Để thực hiện nghị quyết của Trung ương Đảng; Theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã xây dựng trình Chính phủ và Quốc hội Luật BHXH, trong đó có một chương (Chương V) quy định cụ thể chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động làm việc theo hợp đồng lao động hay hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hay xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng mà bị mất việc làm. Luật BHXH đã được kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá XI thông qua ngày 29/6/2006 và chế độ bảo hiểm thất nghiệp sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2009.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
TRỢ CẤP THẤT NGHIỆP VÀ LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAMBảo hiểm xã hội là việc tạo ra nguồn thu nhập thay thế trong trường hợp nguồn thu nhập bình thường bị gián đoạn đột ngột hay mất hẳn, bảo vệ cho những người lao động làm công ăn lương trong xã hội. Trong các cơ chế chủ yếu của hệ thống an sinh xã hội bảo hiểm xã hội là trụ cột quan trọng nhất.
Theo tổng kết của ILO (công ước 102 năm 1952), bảo hiểm xã hội bao gồm chín chế độ chủ yếu sau: chăm sóc y tế,trợ cấp ốm đau,trợ cấp thất nghiệp,trợ cấp tuổi già ,trợ cấp tai nạn lao động,bệnh nghề nghiệp trợ cấp gia đình ,trợ cấp thai sản ,trợ cấp tàn tật,trợ cấp tử tuất.Công ước cũng nói rõ là những nước phê chuẩn công ước này có quyền chỉ áp dụng một số chế độ, nhưng ít nhất phải áp dụng một trong các chế độ: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tàn tật hay trợ cấp tử tuất. Việc áp dụng bảo hiểm xã hội trên của quốc gia khác nhau thường cũng rất khác nhau về nội dung thực hiện tùy thuộc vào nhu cầu bức bách của riêng từng nơi trong việc đảm bảo cuộc sống của người lao động, ngoài ra, còn tùy thuộc vào khả năng tài chính và khả năng quản lí có thể đáp ứng. Tuy nhiên, xu hướng chung là theo đà phát triển kinh tế - xã hội, bảo hiểm xã hội sẽ mở rộng dần về số lượng và nội dung thực hiện của từng chế độ.
Trong nền kinh tế thị trường người lao động luôn có nguy cơ gặp rủi ro thất nghiệp,nhất là đối với những người đang tìm kiếm công việc lần đầu tiên. Đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hoá ,thất nghiệp được coi là “con đẻ”, “bạn đồng hành”.Thất nghiệp gây hậu quả nghiêm trọng đến hầu hết các vấn đề kinh tế,chính trị và xã hội .Thậm chí thất nghiệp còn ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần của người lao động ,gây căng thẳng cho họ.Bởi vậy giải quyết tình trạng thất nghiệp ảnh hưởng không nhỏ đến ASXH .Chống thất nghiệp là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia trên thế giới.
Chống thất nghiệp và chính sách việc làm thường đi đôi với nhau.Các biện pháp này nhau.Các biện pháp này góp phần khuyến khích đầy đủ việc tự do lựa chọn việc làm một cách có hiệu quả và không ngăn cản người sử dụng lao động được yêu cầu và người lao động được tìm kiếm việc làm có hiệu quả. Thất nghiệp được chia làm các loại :
Thất nghiệp tự nhiên: tỷ lệ thất nghiệp đương nhiên bởi luôn có một số người trong giai đoạn chuyển từ chỗ làm này sang chỗ khác.
Thất nghiệp cơ cấu: do sự không tương thích của phân bố lao động và phân bố chỗ làm việc (khác biệt địa lý hay khác biệt kỹ năng). Người thất nghiệp không muốn hay không thể thay đổi nơi ở hay chuyển đổi kỹ năng.
Thất nghiệp chu kỳ: khi tổng cầu lao động thấp hơn tổng cung lao động ở giai đoạn suy thoái của chu kì kinh tế
Thất nghiệp kỹ thuật: do việc thay thế công nhân bằng máy móc hay công nghệ tiên tiến hơn.
Thất nghiệp thông thường: khi thu nhập thực tế xuống dưới mức chấp nhận được.
Thất nghiệp theo học thuyết Mark: là mức cần thiết để thúc đẩy công nhân làm việc và giữ mức lương thấp
Thất nghiệp theo mùa: khi công việc phụ thuộc vào nhu cầu theo thời tiết. Ví dụ: công nhân xây dựng trong mùa mưa, giáo viên dạy trượt tuyết trong mùa hè.
Đối tượng được trợ cấp thất nghiệp là những người lao động tham gia BHXH và bị mất việc làm do nguyên nhân khách quan chứ không do lỗi của họ.Theo điều 20 ,phần IV ,Công ước 102: “ trường hợp bảo vệ phải gồm tình trạng gián đoạn thu nhập như pháp luật hay quy định quốc gia quy định ,và xảy ra do không thể co được một công việc thích hợp ,trong tình hình người được bảo vệ có khả năng làm việc và sẵn sang làm việc”.Người được bảo vệ là những lao động làm công ăn lương với số lượng tham gia tối thiểu là 50% đối với các quốc gia (1).Diện bảo vệ bao gồm những người lao động làm công ăn lương nhưng tối thiểu là 50% số người làm việc trong các công sở công nghiệp sử dụng ít nhất 20 lao động.
Các quốc gia phải đối xử bình đẳng đối với tất cả những người được bảo vệ ,không phân biệt chủng tộc ,màu da,giới tính ,tôn giáo ,quan điểm chính trị ,nguồn gốc dân tộc ,sắc tộc hay nguồn gốc xã hội ,mất khả năng lao động hay tuổi tác.Tuy nhiên ,loại trừ việc bảo vệ đối với những người lao động làm công ăn lương mà pháp luật hay quy định bảo đảm có việc làm đến tuổi nghỉ hưu bình thường ,trong đó bao gồm cả tuổi nghỉ hưu thấp hơn mức chung do đặc thù của công việc.
Mỗi Nước thành viên sẽ tuyên bố như một quyền được ưu tiên về mục tiêu chính sách đã được dự kiến khuyến khích đầy đủ việc lựa chọn việc làm tự do và có hiệu quả bằng mọi biện pháp phù hợp, bao gồm cả bảo đảm xã hội. Những biện pháp này bao gồm cả dịch vụ việc làm, đào tạo nghề và hướng nghiệp.
Tuỳ theo thực tiễn và pháp luật hay quy định quốc gia mỗi Nước thành viên sẽ cố gắng thiết lập chương trình đặc biệt để khuyến khích những cơ hội có việc làm thêm và sự trợ giúp việc làm và khuyến khích tự do lựa chọn việc làm có hiệu quả những loại người bị bất lợi đã được xác định có thể bị khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm lâu dài như phụ nữ, thiếu niên, người bị khuyết tật, người thất nghiệp vĩnh viễn, người lao động di trú hợp pháp tại Nước thành viên và những người lao động dôi ra do thay đổi cơ cấu
Điều kiện được hưởng trợ cấp: Người lao động bị mất việc làm do nguyên nhân khách quan ,tuy có khả năng làm việc và sẵn sang làm việc mà chưa tìm được việc làm sẽ được coi là người thất nghiệp và được hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Điều kiện được hưởng trợ cấp thất nghiệp là người lao động thất nghiệp toàn phần và mất nguồn thu nhập để sinh sống . Đối với lao động có thời vụ ,cần có những quy định riêng để tính thời gian làm việc cần thiết trong năm khi xác nhận tình trạng thất nghiệp.Không xét trợ cấp thất nghiệp cho người lần đầu đi tìm việc mà không tìm được việc làm.Đối với những người già ,người mãn hạn tù ,người di trú ra nước ngoài nay trở về hay trước kia là lao động tự do.
Người thuộc diện bào vệ cũng không được nhận trợ cấp thất nghiệp hay tạm ngừng trợ cấp trong các trường hợp sau:
+ Không có mặt trên lãnh thổ quốc gia.
+ Cơ quan có thẩm quyền xác nhận bị sa thải do lỗi cố ý hay tự ý bỏ việc không có lý do chính đáng.
+ Trong thời gian có tranh chấp về lao động ,bỏ việc để tham gia và tranh chấp lao động hay không có chỗ làm việc hay ngăn cản làm việc do hậu quả trực tiếp của sự ngừng việc do tranh chấp lao động đó.
+ Có ý định hay đã nhận trợ cấp một cách gian lận.
+ Không có lý do xác đáng, không thể sử dụng các phương tiện sẵn có tại chỗ,hướng dẫn nghề, đào tạo, đào tạo lại vào những công việc thích hợp.Đặc biệt là họ từ chối công việc thích hợp.
+ Nhận những khoản thu nhập khác theo quy định của pháp luật ,trừ tr