mrright.shop
New Member
Download Tiểu luận Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta trong nền kinh tế thị trường hiện nay miễn phí
Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế, các cơ quan quản lý thuế cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ các quy định gắn với chế độ chứng từ hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thức kinh doanh, cơ cấu tổ chức. Thông qua sổ sách, chứng từ hóa đơn cơ quan quản lý thuế có thể đánh giá phần nào cơ cấu tổ chức và hoạt động của các đơn vị kinh doanh từ đó nhà nước có thể nắm bắt thực tế tình hình để điều tiết nền kinh tế ngày càng có hiệu quả hơn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
h của nhà nước để thực hiện chức năng của mình, dựa vào quyền lực chính trị, tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã hội một cách cưỡng chế và không hoàn lại’’. Ở khía cạnh nghiên cứu thuế với tư cách là một nội dung điều chỉnh của luật pháp, các chuyên gia về luật thuế nhận định: ‘‘thuế là một trật tự đã được thiết lập hòa bình giữa chính phủ với cộng đồng trong sự tôn trọng thực hiện nghĩa vụ thu nộp vào ngân sách. Thuế không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào giữa các bang hay vùng lãnh thổ’’.Mặc dù có rất nhiều cách định nghĩa như vậy nhưng chúng ta đều có thể nhận thấy những nét chung, những đặc tính nhất định sau :
Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách. Tính bắt buộc được thể hiện ở chỗ, đối với người nộp thuế, đây là nghĩa vụ chuyển giao tài sản của họ cho nhà nước khi có đủ điều kiện mà không phải quan hệ thanh toán dù trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng. Đối với các cơ quan thu thuế, khi thay mặt nhà nước thực hiện các hành vi nhất định cũng không được phép lựa chọn thực hiện hay không thực hiện hành vi thu thuế, có sự phân biệt đối xử đối với người nộp thuế;
Thứ hai, thuế gắn liền với yếu tố quyền lực. Thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước, thực hiện việc cung cấp cơ sở vật chất cho nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Bằng quyền lực chính trị, nhà nước tạo ra cho thuế tính cố định, sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế. Các yếu tố như đối tượng nộp thuế, thuế suất,... được quy định trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ gắn với yếu tố quyền lực thuế mới đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ tạo nguồn thu nhập tài chính cho quốc gia;
Thứ ba, Thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp. Đây chính là điểm quan trọng để phân biệt thuế với các khoản thu từ phí, lệ phí. Bất kỳ đối tượng nào, khi đủ điều kiện đều phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước không phân biệt họ đã nhận được lợi ích công cộng nào, một người chỉ phải nộp phí, lệ phí khi đã nhận được môt lợi ích nhất định từ phía nhà nước. Nhà nước thu thuế để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình, và kết quả đạt được là các công trình công cộng góp phần tạo sự bình yên cho xã hội, đảm bảo an ninh quốc gia và sự phát triển thịnh vượng các chế độ phúc lợi công cộng... đồng thời, đối tượng thụ hưởng kết quả này lại chính là đối tượng nộp thuế. Nói cách khác, người nộp thuế được hoàn trả một cách gián tiếp khoản tiền đã nộp cho nhà nước.
II. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT THUẾ
Như chúng ta đã biết để đảm bảo cho bộ máy nhà nước được duy trì và phát triển cần có một nguồn tài chính ổn định để tạo điều kiện về cơ sở vật chất; Nguồn thu từ thuế để củng cố an ninh quốc phòng, phát triển giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế xã hội, để bảo vệ trật tự xã hội, phát triển văn hóa giáo dục, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc..... Thuế đã ra đời như một tất yếu khách quan, dần dần phát triển theo xu hướng ngày càng hoàn thiện và đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Thuế đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế đất nước, bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước, đóng góp vào nguồn thu cho ngân sách nhà nước đảm bảo sự tồn tại của nhà nước và bộ máy nhà nước; mặt khác, thuế lại được nhà nước sử dụng như là công cụ để thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu nhất định mà mình đã đề ra.
1. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu, đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước
Thuế quan đóng vai trò quan trọng, nguồn thu từ thuế có vị trí quyết định đến cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước (chiếm khoảng 90% trong tổng thu ngân sách nhà nước). Theo quy định tại khoản 1 điều 2 Luật Ngân sách nhà nước: ‘‘Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật’’. Mặt khác, theo quy định tại điều 30, điều 31 Luật Ngân sách nhà nước quy định về nguồn thu của ngân sách trung ương, nguồn thu của ngân sách địa phương đa phần các nguồn thu về của ngân sách nhà nước được thu từ các loại thuế như thuế giá trị gia tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế xuất nhập khẩu; thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế thu nhập đối với người thu nhập cao; thuế nhà đất; thuế tài nguyên; thuế môn bài;.... Theo kết quả theo dõi thuế quan qua các thời kỳ tồn tại và phát triển cho thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách nhà nước. Ở Việt Nam từ những năm 1990 trở lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu ngân sách nhà nước, đảm nhiệm hàng loạt các yêu cầu chi tiêu cho bộ máy nhà nước, cho cộng đồng xã hội. Cụ thể trong giai đoạn 2001 – 2005, ngành hải quan luôn đạt và vượt chỉ tiêu thu ngân sách, góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách của Bộ Tài chính, số thu năm sau luôn cao hơn số thu năm trước : Năm 2001 đạt 29.381 tỷ đồng, năm 2002 đạt 36.74 tỷ đồng, năm 2003 đạt 39.178 tỷ đồng, năm 2004 đạt 46.017 tỷ đồng, năm 2005 đạt 52.000 tỷ đồng và năm 2006 đạt khoảng 58.000 tỷ đồng (như vậy tốc độ tăng thu hàng năm vào khoảng 15%), đây chính là nỗ lực rất lớn của ngành hải quan trong bối cảnh chúng ta đang thực cắt hiện cắt giảm thuế quan theo các cam kết quốc tế. Đặc biệt, đây là giai đoạn đầu thực hiện xác định giá trị hải quan theo nguyên tắc của Hiệp định trị giá GATT, tình trạng gian lận qua giá còn khá phổ biến nhưng ngành đã tập trung chỉ đạo và đưa ra nhiều giải pháp nhằm đảm bảo nhiệm vụ thu thuế đồng thời chống thất thu qua gian lận trị giá.
Ngày 7-11-2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, chúng ta phải thực hiện cam kết về thủ tục nhập khẩu. Mức cam kết chung: Chúng ta đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong vòng 5 - 7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong vòng 5 - 7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5 - 7 năm. Việc cắt giảm thuế theo biểu thuế hiện hành đã ảnh hưởng không nhỏ tới nguồn thu của ngân sách nhà nước. Vì vậy, để cân đối thu – chi ngân sách nhà nước chúng ta cần có những biện pháp để đảm bảo thu – chi một cách hợp lý.
Trong những năm qua, nguồn thu từ thuế vào ngân sách nhà nước đã huy động được một phần lớn nguồn tài chính từ xã hội để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng – kinh tế; đầu tư hỗ trợ cho các doanh nghiệp; các sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá thông tin văn học nghệ thuật, thể dục – thể thao – khoa học công nghệ; Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội; Hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội; Trợ cấp cho các đối...