trieuthimaitrang
New Member
Download Tiểu luận Vấn đề quốc tịch theo pháp luật hiện hành - Những điểm kế thừa và phát triển miễn phí
MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG
A - MỞ ĐẦU 1
B - NỘI DUNG 1
I - Những vấn đề chung về quốc tịch 1
1. Quốc tịch là gì ? 1
2. Cơ sở cho sự ra đời và tồn tại của quốc tịch 2
3. Quốc tịch với vấn đề quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân 3
II - Những vấn đề cơ bản trong luật quốc tịch Việt Nam hiện hành - sự kế thừa và phát triển 3
1. Sự phát triển của pháp luật quốc tịch Việt Nam 3
2. Các nội dung cơ bản của Luật quốc tịch Việt Nam hiện hành 4
2.1 Nguyên tắc Nhà nước Công hoà chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có
một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam. 4
2.2 Có quốc tịch Việt Nam 5
2.3 Nhập quốc tịch Việt Nam 6
2.4 Trở lại quốc tịch Việt Nam 7
2.5 Mất quốc tịch Việt Nam 8
2.6 Thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và con nuôi 9
2.7 Thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề quốc tịch 10
III - Bình luận mở rộng 11
C - KẾT LUẬN 12
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
xin thôi quốc tịch Việt Nam, việc cấp giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam, xác nhận mất quốc tịch Việt Nam, tước quốc tịch Việt Nam.- Thông tư liên tịch số 09 ngày 31/12/1998 của Bộ trưởng Bộ tư pháp về việc ban hành các mẫu giấy tờ liên quan đến quốc tịch Việt Nam, trong đó quy định 19 loại mẫu giấy tờ.
Ngoài ra, bộ phận quan trọng khác của hệ thống luật quốc tịch Việt Nam là điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã hay sẽ ký kết, trực tiếp điều tiết các vấn đè về quốc tịch như hiệp định biên giới, hiệp định về nuôi con nuôi, Công ước quốc tế về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi, Công ước về hạn chế và ngăn ngừa tình trạng không quốc tịch, hiệp định tương trợ tư pháp.
Tóm lại, hệ thống pháp luật về vấn đề quốc tịch Việt Nam hiện nay đã khá hoàn thiện, bao gồm nhiều văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là Luật quốc tịch năm 1998. Trên cơ sở kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật trước đó về vấn đề quốc tịch, Luật quốc tịch 1998 là căn cứ chủ yếu để giải quyết những vấn đề liên quan đến quốc tịch Việt Nam trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
2. Các nội dung cơ bản của Luật quốc tịch Việt Nam hiện hành.
2.1. Nguyên tắc Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam.
Theo Luật quốc tịch năm 1998 cùng với việc khẳng định mỗi cá nhân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quyền có quốc tịch tại Điều 1, nguyên tắc một quốc tịch được quy định rõ ràng tại Điều 3: ‘‘Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam’’. Theo đó, người nước ngoài muốn nhập quốc tịch Việt Nam hay công dân đã thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài, nay muốn trở lại quốc tịch Việt Nam thì phải từ bỏ quốc tịch nước ngoài. Nguyên tắc này có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đây cũng là nội dung xuyên suốt trong các văn bản pháp luật trước đó quy định về vấn đề quốc tịch, ngay từ những văn bản đầu tiên mang tính sơ khai như Sắc lệnh số 53-SL ngày 20/10/1945, Sắc lệnh số 73-SL ngày 7/12/1945... nhưng trực tiếp nhất là Luật quốc tịch 1988. Điều 3 Luật quốc tịch 1988 quy định: ‘‘Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam’’.
Với quy định cụ thể như trên, Luật quốc tịch 1988 đã phát huy được tác dụng trong những quan hệ cụ thể, tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và những người có liên quan đến vấn đề quốc tịch. Mặt khác, nó cũng bảo đảm giữ vững an ninh quốc gia, bác bỏ sự can thiệp của nước ngoài trong việc xử lý nhiều vụ án hình sự liên quan đến người hai quốc tịch. Tuy nhiên, nhiều quy định trong Luật quốc tịch 1988 còn chung chung, thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng không nhất quán trong việc thực hiện nguyên tắc một quốc tịch. Trên thực tế, do một số nước không yêu cầu người nước ngoài muốn nhập quốc tịch nước sở tại phải thôi quốc tịch gốc nên có trường hợp công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài đã nhập quốc tịch nước sở tại nhưng vẫn giữ quốc tịch Việt Nam.
Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 một mặt kế thừa nguyên tắc một quốc tịch từ những văn bản pháp luật trước đó, mặt khác phát triển để phù hợp với thực tế. Nếu như Điều 3 Luật quốc tịch 1988 ghi nhận nguyên tắc một quốc tịch một cách cứng nhắc với từ ‘‘chỉ’’ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, thì Điều 3 Luật quốc tịch 1998 có cách thể hiện linh hoạt, mêm dẻo hơn, bỏ đi từ ‘‘chỉ’’ trong điều luật. Sự mềm dẻo trong việc thực hiện nguyên tắc một quốc tịch nghĩa là trong thực tế có thể chấp nhận những trường hợp có hai quốc tịch hay nhiều hơn, thể hiện ở khoản 3 Điều 20: ‘‘Công dân dân nước ngoài được nhập quốc tịch Việt Nam thì không còn giữ quốc tịch nước ngoài, trừ trường hợp đặc biệt do Chủ tịch nước quyết định’’. Nghĩa là về nguyên tắc, người nước ngoài muốn nhập quốc tịch Việt Nam thì phải bỏ quốc tịch gốc của họ. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, người ấy vẫn có thể giữ quốc tịch gốc nếu được sự cho phép của Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quy định này tạo điều kiện cho một bộ phận Việt kiều có nhiều cơ hội được trở lại quốc tịch Việt Nam với nhiều quyền lợi như quyền đầu tư, mua nhà, kinh doanh...
Đồng thời, Luật quốc tịch 1998 quy định cụ thể những trường hợp mặc nhiên mất quốc tịch Việt Nam nhằm ngăn ngừa và hạn chế tình trạng hai hay nhiều quốc tịch:
Theo Điều 19: Trường hợp trẻ em dưới 15 tuổi (được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam, không rõ cha mẹ là ai thì đương nhiên có quốc tịch Việt Nam) nếu tìm thấy cha mẹ đều có quốc tịch nước ngoài, cha hay mẹ hay người giám hộ có quốc tịch nước ngoài thì đứa trẻ đó đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam.
Theo Điều 28: Trường hợp cả cha và mẹ đều có sự thay đổi quốc tịch do được thôi quốc tịch Việt Nam thì quốc tịch của con chưa thành niên sinh sống cùng cha mẹ được thay đổi theo quốc tịch của họ, tức là mặc nhiên mất quốc tịch Việt Nam.
Nguyên tắc một quốc tịch trong Luật quốc tịch 1998 đã có sự kế thừa Luật quốc tịch 1988, song do rất khó áp dụng triệt để nguyên tắc này trong thực tế nên Luật quốc tịch 1998 đã tạo ra cơ chế thực thi nguyên tắc một quốc tịch một cách linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với thực tiễn.
2.2. Có quốc tịch Việt Nam.
Luật quốc tịch Việt Nam 1998 đã quy định rõ đối tượng nào có quốc tịch Việt Nam tại Điều 14:‘‘Người có quốc tịch Việt Nam bao gồm người đang có quốc tịch Việt Nam cho đến ngày Luật này có hiệu lực và người có quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này’’. Trên cơ sở này, ta có thể chia thành các trường hợp sau:
Thứ nhất, là những người đang có quốc tịch Việt Nam cho đến ngày Luật quốc tịch 1998 có hiệu lực. Trường hợp này bao gồm tất cả những ai hiện đang là công dân Việt Nam, không phụ thuộc vào việc họ được xác định và công nhận như thế nào. Còn từ ngày Luật quốc tịch năm 1998 có hiệu lực thì việc xác định người có quốc tịch Việt Nam căn cứ vào những quy định trong Luật, phù hợp với những quy định chung về quyền đối với quốc tịch được quy định trước đó trong Điều 1 Luật quốc tịch 1988:‘‘Mọi thành viên của các dân tộc đều có quốc tịch Việt Nam’’ và nay được quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật quốc tịch 1998:‘‘Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch’’. Nghĩa là các dân tộc sinh sống lâu đời trên lãnh thổ Việt Nam đều có chung một nhà nước là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các thành viên của dân tộc đó là công dân Việt Nam.
Thứ hai, là những người có quốc tịch Việt Nam do sinh ra. Việc xác định quốc tịch do sinh ra là một vấn đề quan trọng trong pháp luật quốc ...