sayhikorea
New Member
Download miễn phí Đề tài Yếu tố cạnh tranh và yếu tố pháp luật trong môi trường kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam
MỤC LỤC.
Phần I. Lời mở đầu. 2
Phần II. Phần nội dung. 3
Chương I: Cơ sở lý luận về môi trường kinh doanh ngân hàng. 3
I. Khái niệm về môi trường kinh doanh ngân hàng.
II. Những yếu tố ảnh hưởng trong môi trường kinh doanh ngân hàng.
Chương II: Sự ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. 6
I. Khái quát về thực trạng môi trường kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.
1. Thuận lợi và thành tựu đạt được.
2. Những hạn chế còn tồn tại.
II. Sự ảnh hưởng của yếu tố pháp luật và yếu tố cạnh tranh trong môi trường kinh doanh đến hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.
1. Về yếu tố pháp luật.
2. Về yếu tố cạnh tranh.
Chương III: Kiến nghị và giải pháp. 15
1. Về pháp luật.
2.Về cạnh tranh.
Phần III. Phần kết luận 17
Tài liệu tham khảo. 18
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2014-09-14-de_tai_yeu_to_canh_tranh_va_yeu_to_phap_luat_trong.7jQlKgR8RH.swf /tai-lieu/de-tai-yeu-to-canh-tranh-va-yeu-to-phap-luat-trong-moi-truong-kinh-doanh-ngan-hang-o-viet-nam-76216/
Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.
Ketnooi -
Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
2.6. Yếu tố văn hoá xã hội
Văn hoá là hệ thống những giá trị, những quan niệm, truyền thống và chuẩn mực hành vi đạo đức của con người. Văn hoá được hình thành trong những điều kiện kinh tế, chính trị, lịch sử nhất định. Yếu tố văn hoá - xã hội bao gồm trình độ văn hoá của dân cư, phong tục tập quán, tín ngưỡng,… ở vùng thị trường đó. Yếu tố này tác động sâu sắc đến nhận thức, thói quen,…của dân cư, từ đó ảnh hưởng đến việc lựa chọn sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
Trên đây là một số nét khái quát về các yếu tố ảnh hưởng của môi trường kinh doanh. Yếu tố nào cũng quan trọng, tuy nhiên, mỗi yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng theo những phương pháp khác nhau và ở những mức độ khác nhau.
Chương II.
Sự ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến hoạt động
của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Khái quát về thực trạng môi trường kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.
1. Yếu tố thuận lợi và thành tựu đạt được.
Khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam rũ bùn đứng dậy, bắt đầu hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng kinh tế với một xuất phát điểm rất thấp. Sau hơn 20 năm nỗ lực khôi phục kinh tế, với đường lối đúng đắn của Đảng, ngày nay Việt Nam đang từng bước xây dựng, chuyển đổi, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một quãng thời gian chưa dài so với khối lượng công việc “đồ sộ, bề bộn” và vô cùng phức tạp của một quốc gia mà mọi thứ đều cần làm để xây dựng một đất nước phồn vinh, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Riêng trong lĩnh vực ngân hàng, sau hơn một thập kỉ thực hiện chương trình đổi mới với sự giúp đỡ của ngân hàng thế giới, hệ thống ngân hàng đã đạt những thành tựu đáng khích lệ. Có thể khái quát một số thành tựu nổi bật mà chúng ta đã đạt được trong những năm qua như sau:
Thứ nhất, về yếu tố cạnh tranh: Có thể nói tính cạnh tranh trên thị trường ngân hàng Việt Nam hiện nay hết sức khốc liệt, đặc biệt sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ chính thức có hiệu lực (7/2000). Trên thị trường ngân hàng Việt Nam hiện nay không chỉ có các ngân hàng quốc doanh, ngân hàng cổ phần, mà còn có cả ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng này cạnh tranh nhau để giữ vững và mở rộng thị phần cho riêng mình. Động lực cạnh tranh đó làm cho chất lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng có những tiến bộ rõ rệt. Các ngân hàng đua nhau tung ra các sản phẩm mới và tìm mọi cách để cung ứng các dịch vụ ngân hàng một cách tốt nhất cho khách hàng. Cho đến nay, chất lượng của sản phẩm và dịch vụ ngân hàng được nâng cao rõ rệt cả về số lượng và chất lượng. Quả thật, ở đâu không có sự cạnh tranh ở đó không có sự phát triển.
Thứ hai, về yếu tố kinh tế: ít bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính Châu á bắt nguồn từ Thái Lan năm 1997 và cuộc suy thoái kinh tế mới đây của Mỹ, nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây ổn định và tăng trưởng, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô đều đạt và vượt dự kiến, trong đó có các chỉ tiêu tăng trưởng của hệ thống ngân hàng. Nền kinh tế ổn định và tăng trưởng bền vững vô hình chung đã tạo thêm lòng tin cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này khiến ngân hàng phải đổi mới và hoàn thiện các sản phẩm và dịch vụ của mình để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Thứ ba, về yếu tố pháp luật: Chính phủ Việt Nam luôn thiện chí đưa ra những chính sách, luật pháp khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Trong lĩnh vực ngân hàng, các nguồn luật điều chỉnh được sửa đổi để phù hợp với thực trạng kinh doanh, tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động của các ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Đây là yếu tố vĩ mô ảnh hưởng gián tiếp nhưng mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Nếu không có một hành lang pháp lý thông thoáng và lành mạnh, liệu các ngân hàng, dù có tiềm năng đến mấy, có hoạt động hiệu quả được không?
Thứ tư, về yếu tố khoa học công nghệ: Có thể nói thành tựu nổi bật nhất của hệ thống ngân hàng Việt Nam những năm gần đây là sự đổi mới về khoa học công nghệ và áp dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng.
Trong vòng vài năm qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, tình hình giao dịch thanh toán qua mạng SWIFT của các thành viên Việt Nam cũng tăng lên. Do các ngân hàng nhận thức được những quyền lợi thiết thực khi tham gia thanh toán qua mạng SWIFT (nhanh chóng, an toàn, tiết kiệm chi phí…) và được sự phối hợp giúp đỡ của SWIFT Việt Nam trong quá trình hướng dẫn làm thủ tục gia nhập, lắp đặt thiết bị, hỗ trợ trong giai đoạn đầu, số lượng ngân hàng hoạt động tại Việt Nam trở thành thành viên SWIFT trong gần 2 năm qua đã tăng lên nhiều. Năm 1995 khi Việt Nam tham gia thanh toán qua mạng SWIFT mới chỉ có 15 ngân hàng là thành viên. Đến 10/2001 số thành viên đã tăng lên tới 50 trong đó có NHNN, 4 NHTMQD, 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 17 ngân hàng thương mại cổ phần và 4 ngân hàng liên doanh.
Bên cạnh đó, cho đến nay cả bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đều đã đưa vào hoạt động máy ATM. Hệ thống máy ATM được lắp đặt ở nhiều điểm trên khắp cả nước, sẵn sàng cung cấp các dịch vụ ngân hàng cá nhân trong và ngoài giờ làm việc với 7 ngày trong tuần và 24 giờ trong ngày.
Các ngân hàng cũng nỗ lực trong việc phổ biến và khuyến khích thói quen không dùng tiền mặt trong công chúng và phát hành thêm một số loại thẻ tín dụng quốc tế và nội địa. Cho tới thời điểm này các loại thẻ thông dụng trên thế giới hiện đang được thanh toán tại Việt Nam là Visa, Mastercard, JBC, Diner Club, Amex và một số loại thẻ nội địa như VCB-ATM, incombank-ATM, BIDV-ATM…Hy vọng trong những năm gần đây thói quen sử dụng thẻ thanh toán của người dân sẽ phổ biến hơn.
Thêm một thành tựu không thể không kể đến đó làviệc ngân hàng nhà nước Việt Nam ngày 15/7 vừa qua đã tổ chức trọng thể lễ khai trương hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Sự kiện này được coi là bước đột phá quan trọng trong việc đổi mới công nghệ thanh toán ở Việt Nam. Việc đưa hệ thống này vào hoạt động đã giúp cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cũng như khách hàng của họ sử dụng tối đa nguồn vốn, tăng nhanh vòng quay vốn, đáp ứng yêu cầu thanh toán nhanh, an toàn và chính xác.
Việc áp dụng công nghệ vào hoạt động kinh doanh ngân hàng là yếu tố mang tính chất sống còn trong bối cảnh hiện nay, khi tốc độ đổi mới hệ thống công nghệ thông tin đang diễn ra hết sức nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới. Đây chính là phương tiện để các ngân hàng thực hiện hoạt động kinh doanh của mình hiệu quả...