phonghieu9
New Member
Download Đề tài Giải pháp cho thị trường quyền chọn chứng khoán Việt Nam
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
Trang
Chương 1 Cấu trúc thị trường quyền chọn chứng khoán
1.1. Quyền chọn chứng khoán 1
1.2. Đặc điểm quyền chọn chứng khoán 4
1.3. Thực hiện quyền chọn 4
1.4. Các thành phần tham gia giao dịch quyền chọn 7
1.5. Chi phí giao dịch quyền chọn 7
1.6. Một số thị trường quyền chọn chứng khoán trên thế giới 8
1.6.1 Thị trường Chicago Board Options Exchange (CBOE) 8
1.6.2 Thị trường Tokyo (TSE) 18
Chương 2 Thị trường chứng khoán Việt Nam và quyền chọn chứng
khoán
2.1 Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 22
2.2 Sự bất ổn của thị trường chứng khoán 25
2.2.1 Quan sát chung toàn thị trường 25
2.2.2 Quan sát trên một số cổ phiếu cụ thể 27
2.3 Những bất cập còn tồn tại 29
2.4 Thị trường quyền chọn Việt Nam 34
2.4.1 Thị trường quyền chọn vàng 34
2.4.2 Thị trường quyền chọn ngoại tệ 33
Chương 3 Giải pháp cho thị trường quyền chọn chứng khoán Việt Nam
3.1 Đối với Uỷ ban chứng khoán 39
3.1.1 Hành lang pháp lý cho giao dịch quyền chọn chứng khoán 39
3.1.2 Xây dựng cơ chế giao dịch 43
3.2 Đối với Công ty chứng khoán 44
3.2.1 Một số quy định cơ bản 44
3.2.2 Cách thức giao dịch và khớp lệnh 45
3.2.3 Định giá quyền chọn 47
Kết luận 54
Phụ lục và tài liệu tham khảo
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Việc SCIC có quyền quá rộng trong việc mua cổ phiếu cũng tạo ra một khoảng trống cho sự
thiên vị của SCIC với một số công ty nhất định. Nguy cơ này càng lớn khi SCIC được phép
giữ bí mật về danh mục các cổ phiếu được mua, số lượng tiền bỏ ra để mua, thời gian mua v.v.
Từ đây, giá cổ phiếu thay vì phản ánh khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, lại phản ánh doanh
nghiệp nào được chính quyền “ưu ái” bảo kê (bail out) mỗi khi gặp khó khăn. Các doanh
nghiệp được “bảo kê” sẽ càng tự do hơn trong các khoản đầu tư của mình, vì biết “tội vạ đâu
đã có SCIC gánh đỡ”.
Việc can thiệp vào TTCK sẽ khiến các nhà đầu tư trong và ngoài nước về quan niệm thị
trường của Chính phủ. Nếu như thị trường chứng khoán, nơi thông tin đầy đủ nhất, người mua
bán hiểu biết và linh hoạt nhất mà còn cần điều khiển, thì tất cả các thị trường khác đều cần có
sự can thiệp vào giá của Nhà nước! Hành động mà các nước phát triển coi như một cấm kị này
có thể được diễn giải là một bằng chứng rằng Việt Nam chưa phải là một nền kinh tế thị
trường. Và điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng bất lợi cho Việt Nam trong các vụ kiện bán phá
giá, vốn đang là rào chắn ghê gớm cho việc thâm nhập các thị trường phát triển.
Thị trường dễ dàng bị chi phối
TTCK đã phát triển với quy mô ngày càng lớn. Những nhà đầu tư nhỏ không thể tác động vào
thị trường, kinh doanh nhờ may rủi đã phải nhường chỗ cho các đại gia mỗi lần khớp lệnh lên
tới hàng chục tỷ đồng làm thay đổi cung cầu cổ phiếu của một công ty. Hiện nay các đại gia
này phần lớn là các nhà đầu tư nước ngoài, họ để mắt tới cổ phiếu của công ty nào thì cổ phiếu
của công ty đó tăng giá. Song các nhà đầu tư này chưa sẵn sàng vì lợi tức cổ phiếu mang lại
thấp. Thực tế trong thời gian qua họ mới chuyển từ cổ phiếu này sang cổ phiếu khác, tìm cơ
hội rút vốn cho đỡ thua thiệt.
Nạn đầu cơ chứng khoán. Thực tế vừa qua trên TTCKVN những nhà đầu tư chân chính rất ít
mà phần lớn là những nhà buôn chứng khoán. Họ có ít kiến thức về thị trường, về quản trị
kinh doanh. Họ lao vào chứng khoán do thấy đã có nhiều người phất to từ thị trường này. Họ
mua chứng khoán không vì mục tiêu đầu tư và hưởng cổ tức từ lợi nhuận của doanh nghiệp
mà họ đầu cơ chứng khoán, mua đi bán lại hưởng chênh lệch giá. Chứng khoán đối với họ là
một trò chơi như chơi xổ số, chơi hụi. Do vậy đã làm nhu cầu chứng khoán tăng lên giả tạo.
Quan niệm sai lầm Cung-Cầu chứng khoán
Dường như có một sai lầm cơ bản nhưng phổ biến của nhiều nhà đầu tư Việt Nam và cả của
nhà quản lý (cụ thể là Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước) là áp dụng “quy luật” cung cầu cho
TTCKVN. Khái niệm “cầu” của hàng hoá thông thường được xây dựng dựa trên ích lợi mà
chúng mang lại cho người tiêu dùng: Đứng trước một chiếc xe máy, mỗi người sẽ tính xem
mình đỡ được bao nhiêu thời gian và sức lực dành cho việc đi lại. Nhu cầu tiêu dùng xe máy
của mỗi người là tự thân và ổn định, mặc dù ích lợi thu được với từng người là khác nhau. Mỗi
người sẽ chỉ mua xe máy nếu phần tiết kiệm thời gian và sức lực lớn hơn số tiền mà anh ta
phải bỏ ra. Với mỗi mức giá, sẽ có một số người thấy đáng mua và một số người không. Giá
càng rẻ thì càng nhiều người thấy đáng mua. Khi xe máy đi nhanh hơn, tiện lợi hơn thì nhiều
người muốn mua hơn (cầu tăng).
Ngược lại, người mua và bán chứng khoán không có ích lợi tự thân nào từ “tiêu dùng” cổ
phiếu (vì thế, “cầu” cổ phiếu theo đúng nghĩa là bằng không). Lý thuyết cung cầu không áp
dụng được cho chứng khoán.
Thay vì cung cầu, lợi nhuận kì vọng chính là quy luật vận hành của TTCK. Nhà đầu tư cổ
phiếu chỉ có một quan tâm duy nhất, là làm sao số tiền thu về từ cổ phiếu (cổ tức và giá bán
lại) lớn hơn số tiền mua. Mỗi người chỉ mua cổ phiếu khi tin rằng giá hiện tại của nó nhỏ hơn
thu nhập kì vọng (giá cổ phiếu cộng với cổ tức) (tức là giá cổ phiếu đang “rẻ”), và bán ra trong
trường hợp ngược lại. Vì kì vọng của mỗi người lại khác nhau, nên họ mua bán với nhau trên
TTCK. Khi số người tin rằng cổ phiếu đang “đắt” nhiều hơn số người cho rằng cổ phiếu đang
“rẻ” thì giá cổ phiếu đi xuống, và ngược lại. Nếu không bị giới hạn về thanh khoản, việc có
thêm nhiều cổ phiếu của các doanh nghiệp mới trên thị trường chứng khoán sẽ không thể ảnh
hưởng đến giá trị của các cổ phiếu của các doanh nghiệp khác, bởi vì mỗi loại cổ phiếu đều có
thu nhập kì vọng riêng của nó, không liên quan nhiều đến các cổ phiếu của doanh nghiệp khác.
Thị trường phụ thuộc vào các công ty có giá trị vốn hóa lớn
Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, do quy mô của TTCKVN còn nhỏ, cơ chế hoạt động
chưa thật sự hoàn chỉnh nên những diễn biến trên thị trường phụ thuộc rất lớn vào những công
ty niêm yết có giá trị vốn hóa lớn. Lúc thị trường mới thành lập, chỉ số VN-Index phụ thuộc
vào giá trị cổ phiếu SAM, REE. Hiện nay, việc biến động các cổ phiếu như FPT, VNM, STB
lại dẫn đến sự biến động của thị trường.
Việc phân tích kỹ thuật hay phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như sử dụng
những mô hình định lượng khác trong việc phân tích và dự báo giá cổ phiếu trở nên không
hữu ích đối với các nhà đầu tư riêng lẻ.
Thực tế thời gian qua cho thấy, câu hỏi: “Tại sao giá cổ phiếu tăng hay giảm một cách đột
ngột trong khi tình hình kinh doanh của chính công ty đó chẳng có gì đột biến?” được các nhà
đầu tư quan tâm, nhưng ít khi họ biết đến thực chất của vấn đề vì họ không nắm được thông
tin từ thị trường.
Việc biến động của thị trường chứng khoán thời gian qua không phản ánh tình hình kinh tế.
Chỉ số VN-Index biến động, tăng cao rồi giảm mạnh và lại tăng cao, dù nền kinh tế vẫn tiếp
tục tăng trưởng, lạm phát được kiểm soát...
Hệ thống giao dịch chưa hoàn thiện
Hệ thống thông tin trên thị trường chứng khoán gồm năm thành phần quan trọng cùng tương
tác, phụ thuộc và ảnh hưởng với nhau. Đó là:
(i) Hệ thống thanh toán, lưu ký và bù trừ chứng khoán.
(ii) Hệ thống giao dịch của sở giao dịch chứng khoán.
(iii) Hệ thống thông tin giao dịch tại công ty chứng khoán.
(iv) Hạ tầng truyền thông kết nối giữa các bên tham gia thị trường chứng khoán.
(v) Hệ thống giám sát và công bố thông tin của sở giao dịch chứng khoán.
Điều quan trọng nhất của TTCKVN hiện nay là hệ thống giao dịch chưa hoàn thiện, mà cụ thể
là hệ thống thanh toán, lưu ký và bù trừ chứng khoán. Tất cả thông tin khách hàng, lưu ký,
thanh toán và bù trừ chứng khoán cho công ty niêm yết, hay chưa niêm yết, khách hàng của
các công ty chứng khoán đều nằm ở đây. Các công ty chứng khoán chỉ là các thành viên của
hệ thống thông tin này mà thôi. Chính vì sự yếu kém mà thời gian thanh toán chưa thể giảm từ
T+3 xuống T+1. Việc rút ngắn thời gian thanh toán s
Download Đề tài Giải pháp cho thị trường quyền chọn chứng khoán Việt Nam miễn phí
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
Trang
Chương 1 Cấu trúc thị trường quyền chọn chứng khoán
1.1. Quyền chọn chứng khoán 1
1.2. Đặc điểm quyền chọn chứng khoán 4
1.3. Thực hiện quyền chọn 4
1.4. Các thành phần tham gia giao dịch quyền chọn 7
1.5. Chi phí giao dịch quyền chọn 7
1.6. Một số thị trường quyền chọn chứng khoán trên thế giới 8
1.6.1 Thị trường Chicago Board Options Exchange (CBOE) 8
1.6.2 Thị trường Tokyo (TSE) 18
Chương 2 Thị trường chứng khoán Việt Nam và quyền chọn chứng
khoán
2.1 Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 22
2.2 Sự bất ổn của thị trường chứng khoán 25
2.2.1 Quan sát chung toàn thị trường 25
2.2.2 Quan sát trên một số cổ phiếu cụ thể 27
2.3 Những bất cập còn tồn tại 29
2.4 Thị trường quyền chọn Việt Nam 34
2.4.1 Thị trường quyền chọn vàng 34
2.4.2 Thị trường quyền chọn ngoại tệ 33
Chương 3 Giải pháp cho thị trường quyền chọn chứng khoán Việt Nam
3.1 Đối với Uỷ ban chứng khoán 39
3.1.1 Hành lang pháp lý cho giao dịch quyền chọn chứng khoán 39
3.1.2 Xây dựng cơ chế giao dịch 43
3.2 Đối với Công ty chứng khoán 44
3.2.1 Một số quy định cơ bản 44
3.2.2 Cách thức giao dịch và khớp lệnh 45
3.2.3 Định giá quyền chọn 47
Kết luận 54
Phụ lục và tài liệu tham khảo
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
hiệp quá mức của chính phủ vào thị trường chứng khoánViệc SCIC có quyền quá rộng trong việc mua cổ phiếu cũng tạo ra một khoảng trống cho sự
thiên vị của SCIC với một số công ty nhất định. Nguy cơ này càng lớn khi SCIC được phép
giữ bí mật về danh mục các cổ phiếu được mua, số lượng tiền bỏ ra để mua, thời gian mua v.v.
Từ đây, giá cổ phiếu thay vì phản ánh khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, lại phản ánh doanh
nghiệp nào được chính quyền “ưu ái” bảo kê (bail out) mỗi khi gặp khó khăn. Các doanh
nghiệp được “bảo kê” sẽ càng tự do hơn trong các khoản đầu tư của mình, vì biết “tội vạ đâu
đã có SCIC gánh đỡ”.
Việc can thiệp vào TTCK sẽ khiến các nhà đầu tư trong và ngoài nước về quan niệm thị
trường của Chính phủ. Nếu như thị trường chứng khoán, nơi thông tin đầy đủ nhất, người mua
bán hiểu biết và linh hoạt nhất mà còn cần điều khiển, thì tất cả các thị trường khác đều cần có
sự can thiệp vào giá của Nhà nước! Hành động mà các nước phát triển coi như một cấm kị này
có thể được diễn giải là một bằng chứng rằng Việt Nam chưa phải là một nền kinh tế thị
trường. Và điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng bất lợi cho Việt Nam trong các vụ kiện bán phá
giá, vốn đang là rào chắn ghê gớm cho việc thâm nhập các thị trường phát triển.
Thị trường dễ dàng bị chi phối
TTCK đã phát triển với quy mô ngày càng lớn. Những nhà đầu tư nhỏ không thể tác động vào
thị trường, kinh doanh nhờ may rủi đã phải nhường chỗ cho các đại gia mỗi lần khớp lệnh lên
tới hàng chục tỷ đồng làm thay đổi cung cầu cổ phiếu của một công ty. Hiện nay các đại gia
này phần lớn là các nhà đầu tư nước ngoài, họ để mắt tới cổ phiếu của công ty nào thì cổ phiếu
của công ty đó tăng giá. Song các nhà đầu tư này chưa sẵn sàng vì lợi tức cổ phiếu mang lại
thấp. Thực tế trong thời gian qua họ mới chuyển từ cổ phiếu này sang cổ phiếu khác, tìm cơ
hội rút vốn cho đỡ thua thiệt.
Nạn đầu cơ chứng khoán. Thực tế vừa qua trên TTCKVN những nhà đầu tư chân chính rất ít
mà phần lớn là những nhà buôn chứng khoán. Họ có ít kiến thức về thị trường, về quản trị
kinh doanh. Họ lao vào chứng khoán do thấy đã có nhiều người phất to từ thị trường này. Họ
mua chứng khoán không vì mục tiêu đầu tư và hưởng cổ tức từ lợi nhuận của doanh nghiệp
mà họ đầu cơ chứng khoán, mua đi bán lại hưởng chênh lệch giá. Chứng khoán đối với họ là
một trò chơi như chơi xổ số, chơi hụi. Do vậy đã làm nhu cầu chứng khoán tăng lên giả tạo.
Quan niệm sai lầm Cung-Cầu chứng khoán
Dường như có một sai lầm cơ bản nhưng phổ biến của nhiều nhà đầu tư Việt Nam và cả của
nhà quản lý (cụ thể là Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước) là áp dụng “quy luật” cung cầu cho
TTCKVN. Khái niệm “cầu” của hàng hoá thông thường được xây dựng dựa trên ích lợi mà
chúng mang lại cho người tiêu dùng: Đứng trước một chiếc xe máy, mỗi người sẽ tính xem
mình đỡ được bao nhiêu thời gian và sức lực dành cho việc đi lại. Nhu cầu tiêu dùng xe máy
của mỗi người là tự thân và ổn định, mặc dù ích lợi thu được với từng người là khác nhau. Mỗi
người sẽ chỉ mua xe máy nếu phần tiết kiệm thời gian và sức lực lớn hơn số tiền mà anh ta
phải bỏ ra. Với mỗi mức giá, sẽ có một số người thấy đáng mua và một số người không. Giá
càng rẻ thì càng nhiều người thấy đáng mua. Khi xe máy đi nhanh hơn, tiện lợi hơn thì nhiều
người muốn mua hơn (cầu tăng).
Ngược lại, người mua và bán chứng khoán không có ích lợi tự thân nào từ “tiêu dùng” cổ
phiếu (vì thế, “cầu” cổ phiếu theo đúng nghĩa là bằng không). Lý thuyết cung cầu không áp
dụng được cho chứng khoán.
Thay vì cung cầu, lợi nhuận kì vọng chính là quy luật vận hành của TTCK. Nhà đầu tư cổ
phiếu chỉ có một quan tâm duy nhất, là làm sao số tiền thu về từ cổ phiếu (cổ tức và giá bán
lại) lớn hơn số tiền mua. Mỗi người chỉ mua cổ phiếu khi tin rằng giá hiện tại của nó nhỏ hơn
thu nhập kì vọng (giá cổ phiếu cộng với cổ tức) (tức là giá cổ phiếu đang “rẻ”), và bán ra trong
trường hợp ngược lại. Vì kì vọng của mỗi người lại khác nhau, nên họ mua bán với nhau trên
TTCK. Khi số người tin rằng cổ phiếu đang “đắt” nhiều hơn số người cho rằng cổ phiếu đang
“rẻ” thì giá cổ phiếu đi xuống, và ngược lại. Nếu không bị giới hạn về thanh khoản, việc có
thêm nhiều cổ phiếu của các doanh nghiệp mới trên thị trường chứng khoán sẽ không thể ảnh
hưởng đến giá trị của các cổ phiếu của các doanh nghiệp khác, bởi vì mỗi loại cổ phiếu đều có
thu nhập kì vọng riêng của nó, không liên quan nhiều đến các cổ phiếu của doanh nghiệp khác.
Thị trường phụ thuộc vào các công ty có giá trị vốn hóa lớn
Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, do quy mô của TTCKVN còn nhỏ, cơ chế hoạt động
chưa thật sự hoàn chỉnh nên những diễn biến trên thị trường phụ thuộc rất lớn vào những công
ty niêm yết có giá trị vốn hóa lớn. Lúc thị trường mới thành lập, chỉ số VN-Index phụ thuộc
vào giá trị cổ phiếu SAM, REE. Hiện nay, việc biến động các cổ phiếu như FPT, VNM, STB
lại dẫn đến sự biến động của thị trường.
Việc phân tích kỹ thuật hay phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như sử dụng
những mô hình định lượng khác trong việc phân tích và dự báo giá cổ phiếu trở nên không
hữu ích đối với các nhà đầu tư riêng lẻ.
Thực tế thời gian qua cho thấy, câu hỏi: “Tại sao giá cổ phiếu tăng hay giảm một cách đột
ngột trong khi tình hình kinh doanh của chính công ty đó chẳng có gì đột biến?” được các nhà
đầu tư quan tâm, nhưng ít khi họ biết đến thực chất của vấn đề vì họ không nắm được thông
tin từ thị trường.
Việc biến động của thị trường chứng khoán thời gian qua không phản ánh tình hình kinh tế.
Chỉ số VN-Index biến động, tăng cao rồi giảm mạnh và lại tăng cao, dù nền kinh tế vẫn tiếp
tục tăng trưởng, lạm phát được kiểm soát...
Hệ thống giao dịch chưa hoàn thiện
Hệ thống thông tin trên thị trường chứng khoán gồm năm thành phần quan trọng cùng tương
tác, phụ thuộc và ảnh hưởng với nhau. Đó là:
(i) Hệ thống thanh toán, lưu ký và bù trừ chứng khoán.
(ii) Hệ thống giao dịch của sở giao dịch chứng khoán.
(iii) Hệ thống thông tin giao dịch tại công ty chứng khoán.
(iv) Hạ tầng truyền thông kết nối giữa các bên tham gia thị trường chứng khoán.
(v) Hệ thống giám sát và công bố thông tin của sở giao dịch chứng khoán.
Điều quan trọng nhất của TTCKVN hiện nay là hệ thống giao dịch chưa hoàn thiện, mà cụ thể
là hệ thống thanh toán, lưu ký và bù trừ chứng khoán. Tất cả thông tin khách hàng, lưu ký,
thanh toán và bù trừ chứng khoán cho công ty niêm yết, hay chưa niêm yết, khách hàng của
các công ty chứng khoán đều nằm ở đây. Các công ty chứng khoán chỉ là các thành viên của
hệ thống thông tin này mà thôi. Chính vì sự yếu kém mà thời gian thanh toán chưa thể giảm từ
T+3 xuống T+1. Việc rút ngắn thời gian thanh toán s