Download miễn phí Chuyên đề Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các loại hình hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp của tỉnh Hà Tây
Ngày nay khi mà hoạt động kinh doanh dịch vụ theo cơ chế thị trường đòi hỏi người cán bộ của các tổ chức kinh tế nói chung và cán bộ quản lý HTX nói riêng phải có trình độ, năng động nắm bắt nhanh những thông tin cần thiết cho công việc kinh doanh của mình.
Qua biểu 11 cho thấy hiện nay, tổng số cán bộ toàn tỉnh là 6183 người bình quân một HTX có 12,1 người và so với trước chuyển đổi thì có thêm Ban kiểm soát. Trình độ cán bộ quản lý HTX được chia ra : Đại học 36 người (chiếm 0,58%), cao đẳng 410 người (6,63%), trung cấp 1878 người (chiếm 30,37%), chưa qua đào tạo 3859 người (chiếm 64,42%). Như vậy tỷ lệ số cán bộ có trình độ còn nhỏ, trong khi số cán bộ chưa qua đào tạo là khá lớn.
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2013-11-08-chuyen_de_nhung_giai_phap_chu_yeu_nham_phat_trien.GdJNow788k.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-44585/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
ngành nông nghiệp. Đây là hai ngành có giá trị kinh tế cao, để phát triển sản xuất hàng hoá thì các hộ nông dân rất cần những dịch vụ về đầu vào như giống, thú y, khuyến nông ...Ngoài ra dịch vụ tiêu thụ sản phẩm cũng rất cần thiết bởi vì thông qua dịch vụ của HTX sẽ tạo ra các cơ sở thu gom thuận lợi cho các doanh nghiệp đến ký hợp đồng mua, bán với các hộ nông dân.3.Đánh giá chung.
+ Về thuận lợi.
Hà Tây có thời tiết khí hậu, đất đai và các nguồn lực khác khá thuận lợi cho việc đa dạng hoá cây trồng vật nuôi, luân canh cây trồng. Phát triển cây lương thực, thực phẩm đặc biệt là cây công nghiệp cây ăn quả có giá trị kinh tế cao. Do đó, để phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá, đa dạng các sản phẩm nông nghiệp thì bên cạnh những thuận lợi về điều kiện tự nhiên kinh tế-xã hội như trên thì việc phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp là rất cần thiết. Các HTX dịch vụ này sẽ phục vụ đắc lực cho việc sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp.
Qua một thời gian dài đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng, Hà Tây đã có một cơ sở hạ tầng tương đối đồng bộ và vững chắc. Nó sẽ tạo điều kiện cho việc trao đổi hàng hoá- dịch vụ, tiếp thu khoa học công nghệ được dễ dàng. Lúc này yêu cầu đặt ra HTX nông nghiệp là phải mở rộng các khâu dịch vụ đáp ứng nhu cầu của kinh tế hộ.
Những năm qua, kinh tế Hà Tây đã có bước tăng trưởng khá, đời sống nhân dân được cải thiện, nông thôn ổn định hơn. Đặc biệt đối với người nông dân đã phần nào yên tâm và tin tưởng vào đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước nói chung, sự chỉ đạo điều hành sản xuất nông nghiệp ở các HTX nông nghiệp Hà Tây nói riêng.
Bên cạnh những thuận lợi trên Hà Tây cũng có những khó khăn cho phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp, đó là:
Sự tác động của điều kiện tự nhiên như: Mưa, gió, lũ lụt, hạn hán, sâu bệnh làm hạn chế năng suất, sản lượng cây trồng, vật nưôi ảnh hưởng đến thu nhập của xã viên, kéo theo nguồn thu của HTX nông nghiệp không đảm bảo.
Cơ sở hạ tầng không đồng bộ, chất lượng kém.
Nhìn chung, Hà Tây là tỉnh nghèo, dân số đông, bình quân GDP/người thấp chỉ bằng khoảng 5.5% so với bình quân cả nước và 69,2% so với vùng Đồng bằng Sông Hồng cơ sở hạ tầng chưa phát triển, kinh tế hộ chủ yếu thuần nông, nhu cầu về các dịch vụ đầu ra, đầu vào chưa cao. Do đó, phát triển các loại hình HTX dịch vụ cũng gặp nhiều khó khăn.
II- Các giai đoạn phát triển HTX nông nghiệp tỉnh Hà Tây trước luật HTX.
1. Giai đoạn thực hiện chỉ thị 100 của Ban bí thư.
Cùng với sự phát triẻn của phong trào HTX nông nghiệp trong cả nước, các HTX nông nghiệp tỉnh Hà Tây cũng có những bước đi nhất định. Sau năm 1954 Hà Tây bắt tay vào xây dựng HTX nông nghiệp. Cuối năm 1960 các HTX nông nghiệp Hà Tây cơ bản hoàn thành góp phần chi viện cho tiền tuyến ở miền Nam. Sau năm 1975 đất nước thống nhất các HTX nông nghiệp được phát triển mạnh về quy mô.
Tuy nhiên do điều kiện của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung dẫn đến người lao động không phấn khởi hăng say trong sản xuất, người nông dân mất dần tính chủ động sáng tạo, dựa dẫm ỷ lại vào HTX, tình trạng “rong công, phóng điểm “ diễn ra phổ biến ở các HTX nông nghiệp trong tỉnh, dẫn đến một số HTX nông nghiệp hoạt động không hiệu quả.
Trước tình hình đó chỉ thị 100 của Ban bí thư đã được ban hành vào ngày 13\1\1981 nhằm “ Cải tiến công tác khoán mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động “ trong HTX nông nghiệp.
Do tác động tích cực của cơ chế “khoán sản phẩm “ đến đầu năm 1982, chỉ sau một năm phần lớn các HTX nông nghiệp trong tỉnh đã triển khai cơ chế này. Nông dân phấn khởi nhiệt tình trong sản xuất, đưa giống mới vật tư kỹ thuật vào sản xuất làm cho năng suất, sản lượng cây trồng tăng đáng kể, và nguồn nộp của HTX cho Nhà nước cũng tăng.
Bên cạnh những thành công của cơ chế “khoán sản phẩm “ thì cũng bộc lộ những hạn chế cần giải quyết đó là cơ chế quản lý thụ động, phân phối theo công điểm, tệ quan liêu lãng phí vẫn tiếp tục tăng và trở nên phổ biến do đó làm cho sản lượng lương thực giảm.
Trong bối cảnh đó Nghị quyết 10 của Bộ chính trị ra đời.
2. Tình hình phát triển HTX nông nghiệp sau Nghị quyết 10 của Bộ chính trị đến khi có Luật HTX.
Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (Khoá VI ) ban hành 5/4/1988 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp đã mở ra thời kỳ mới trong nông nghiệp- nông thôn.
Nội dung chủ yếu của Nghị quyết 10 là xoá bỏ công điểm, thực hiện khoán theo đơn giá thanh toán gọn, giao đất đai tư liệu sản xuất chủ yếu cho người lao động quản lý và sử dụng trong các HTX nông nghiệp.
Các HTX nông nghiệp hoạt động theo cơ chế mới. Ban quản trị HTX chuyển từ quản lý trực tiếp sang gián tiếp tức là HTX đã xây dựng quy hoạch, kế hoạch sản xuất cho từng vụ, từng năm, chỉ đạo xã viên về cơ cấu giống cây trồng vật nuôi, chỉ đạo thời vụ gieo cấy, kỹ thuật thâm canh, khắc phục thiên tai, HTX nông nghiệp chuyển sang làm dịch vụ cho hộ xã viên. Hộ xã viên có quyền tự do bố trí sản xuất và quan hệ với hợp tác bình đẳng thông qua hợp đồng.
Tuy nhiên việc chuyển từ cơ chế cũ sang cơ chế mới làm cho hầu hết các HTX nông nghiệp trong tỉnh gặp nhiều khó khăn trong công tác điều hành quản lý, thậm chí có những HTX không thích ứng được phải giải thể.
Đến năm 1996 khi luật HTX được ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1997 các HTX nông nghiệp Hà Tây đã chuyển đổi để hoạt động theo luật HTX. Trên thực tế tình hình chuyển đổi diễn ra cũng rất phức tạp và khó khăn. Tính đến ngày 31/12/2002 toàn tỉnh có 520 HTX đã chuyển đổi được 514 HTX, còn 6 HTX chưa chuyển đổi được do còn những vướng mắc về nội bộ chưa giải quyết được.
Các HTX nông nghiệp sau khi chuyển đổi đã được UBND huyện cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. đến hết năm 2002, có 452 HTX chiếm 87,93% số HTX đã chuyển đổi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Biểu 5 : Tình hình chuyển đổi HTX nông nghiệp theo luật.
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
1.Tổng số HTXNN
514
515
520
520
2.Số HTX đã chuyển đổi
495
505
511
514
% so với tổng số HTX
96.30
98.05
98.26
98.85
3.Số đã được cấp ĐKKD
429
451
498
452
% so với số đã chuyển đổi
86.67
89.30
97.45
87.93
4.Số HTX đã đổi lại dấu
158
205
254
302
% so với số đã chuyển đổi
31.92
40.59
49.70
58.75
5.Số HTX chưa chuyển đổi
19
10
9
6
Nguồn hòng HTX và ngành nghề nông thôn
Tuy nhiên, việc đổi dấu của HTX tiến hành rất chậm nên ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình giao dịch kinh doanh dịch vụ của HTX với các tổ chức, cá nhân khác. Nguyên nhân là do ban quản trị chưa quan tâm tới viẹc đổi dấu mới và chưa thấy hết hậu quả xấu gây ra trong quá trình phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp.
III. Tình hình phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp của tỉnh Hà Tây từ khi có luật HTX đến nay.
1.Thực trạng các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp sau khi có luật HTX.
...