ngaymaituoisang_lv
New Member
Download miễn phí Chuyên đề Giải pháp nâng cao hoạt động cho vay theo dự án đầu tư tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Bến Thuỷ
Hoạt động cho vay theo dự án đầu tư của chi nhánh NHCT Bến Thủy chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Vinh. Phạm vi cho vay chỉ tập trung vào các đối tượng khách hàng nằm trong khu vực địa bàn đặt chi nhánh. Tuy nhiên, do đặc thù của các dự án nên quy mô thực hiện các dự án rất trãi rộng. Các dự án xây dựng cầu, đường, hay cơ sở hạ tầng thường trãi dài qua nhiều địa phương. Do đó, không gian tín dụng của các món vay là rất rộng.
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2014-03-13-chuyen_de_giai_phap_nang_cao_hoat_dong_cho_vay_the.PkmVIkOsK7.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-63763/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
inh nhu cầu vay vốn từ NHTM. Với quan điểm “too big to fail”, NHTM có thể tương đối yên tâm với món vay của mình vì dự án nhiều khả năng sẽ đạt hiệu quả về mặt kinh tế. Với vị trí chủ đạo trong ngành của mình, lại thêm sự ưu đãi của Chính phủ, doanh nghiệp - tập đoàn hoàn toàn có khả năng trả nợ cho Ngân hàng. Mối quan hệ tín dụng này càng trở nên dễ dàng nếu một Tổng công ty Nhà nước vay vốn tại một Ngân hàng thương mại Nhà nước. Trường hợp này giống như rút tiền từ túi này sang túi khác để tiêu. Với loại hình doanh nghiệp này, tiềm năng tín dụng của Ngân hàng là rất lớn.Mối quan hệ tín dụng với Ngân hàng:
Quan hệ tín dụng là quan hệ “vay muợn” trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau. Để có được một khoảng vay, khách hàng vay lần đầu thường gặp khó khăn trong việc tạo niềm tin với Ngân hàng. Họ phải bắt đầu từ việc trình hồ sơ pháp lý, phương án sử dụng vốn vay các giấy tờ chứng nhận tài sản đảm bảo. Phải chắc chắn thoả mãn những điều kiện vay vốn của Ngân hàng, khách hàng mới có thể nhận được khoản tín dụng. Theo thời gian, niềm tin nơi khách hàng của Ngân hàng nhằm được củng cố bằng những khoản trả nợ gấp và lãi đúng thời hạn, đủ số lượng. Khách hàng càng có mối quan hệ tín dụng với Ngân hàng trong thời gian dài càng tạo được niềm tin chắc chắn, và khả năng vay vốn trong những lần sau thuận lợi hơn nhiều. Sự thuận lợi đó có thể là giảm bớt khắt khe trong điều kiện vay vốn, hay bỏ qua một số khâu trong quá trình thẩm định cho vay. Thậm chí, trong những trường hợp doanh nghiệp gặp khó khăn, Ngân hàng hoàn toàn có thể cho khách hàng truyền thống những khoản tín dụng “nóng” để thoát khỏi khó khăn.
Khách hàng truyền thống là một lợi thế cho bản thân doanh nghiệp, đồng thời cũng mang lại cho Ngân hàng những tiện ích nhất định. Khi quan hệ tín dụng lâu dài đã được xây dựng trên cơ sở niềm tin chắc chắn, Ngân hàng sẽ có thể “sống chết” cùng doanh nghiệp. Việc thu nợ gốc, lãi vay cũng đơn giản hơn; đồng thời công tác thẩm định cho vay những lần sau cũng không mất nhiều công sức. Một Ngân hàng càng có nhiều khách hàng truyền thống trong cơ cấu khách hàng của mình thì hoạt động tín dụng càng an toàn và niềm tin mở rộng tín dụng cũng lớn. Tuy nhiên có một thực tế là thời gian để tạo ra một khách hàng truyền thống không phải ngắn. Và Ngân hàng nào có càng nhiều khách hàng truyền thống, tức là số lượng khách hàng mới phát triển hàng năm không nhiều. Đó là nghịch lý trong mối quan hệ khách hàng và tiềm năng mở rộng tín dụng Ngân hàng.
Các nhân tố ảnh hưởng từ Hội sở chính và cơ quan quản lý Nhà nước.
Quy mô và chính sách của Chính phủ.
NHTM cũng như doanh nghiệp đều là các chủ thể trong nền kinh tế, đều hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Hơn thế nữa, NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên càng bị kiểm soát chặt chẽ. Đại diện của các cơ quan quản lý Nhà nước với NHTM là Chính phủ, Bộ tài chính và NHNN. Các văn bản luật, những quy định, thông tư thực hiện luật ảnh hưởng mang tính chi phối tới hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động chính trị nói riêng.
Với tư cách cơ quan quản lý Nhà nước, vấn đề Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước quan tâm đầu tiên là đảm bảo an toàn trong hoạt động của NHTM. Tính chất an toàn ở đây không phải là làm sao để NHTM thu đúng và đủ nợ cho vay, mà mục tiêu đảm bảo Ngân hàng hoạt động trong phạm vi cho phép, không gây ra những biến động lớn trong thị trường tiền tệ. Các quy định về tỉ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng thường xuyên được điều chỉnh và ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của NHTM. Quy định mới nhất của Thống đốc NHNN - quyết định 457/2005/QĐ – NHNH đã ảnh hưởng đáng kể tới NHTM. Việc quy định hệ số an toàn tối thiểu với các NHTM là 8% đã đặt ra thách thức lớn cho toàn hệ thống. Đây là yêu cầu của quá trình hội nhập và phát triển ngành Ngân hàng, hướng tới mục tiêu hoà nhập vào khu vực và thế giới. Các NHTM chưa đạt tiêu chuẩn về hệ số an toàn tối thiểu cho thời hạn tối đa 3 năm để đạt chỉ tiêu này. hay việc NHNN cho phép NHTM sử dụng tới 40% vốn ngắn hạn để cho vay trung - dài hạn giúp NHTM mở rộng hoạt động tín dụng trung – dài hạn. Chưa bàn tới tính phù hợp và hiệu quả của những quy định này, nhưng rõ ràng nó đã ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động của NHTM, trong đó có mở rộng hoạt động tín dụng.
Ngân hàng không phải là đối tượng duy nhất chịu sự điều tiết của các cơ quan quản lý Nhà nước. Khách hàng của Ngân hàng: các doanh nghiệp cũng chịu sự quản lý của các cơ quan như: Chính phủ, Bộ tài chính. Tuỳ vào những thời kì phát triển khác nhau với mục tiêu chiến lược kinh tế khác nhau, Chính phủ thường có những chương trình chính sách ưu đãi với các đối tượng doanh nghiệp khác nhau. Các doanh nghiệp thường xuyên nhận được ưu đãi của Chính phủ nhất là các doanh nghiệp độc quyền ngành, các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước và các doanh nghiệp nằm trong các chương trình đầu tư phát triển của WB hay ADB. Các doanh nghiệp này khi đến Ngân hàng với tư cách khách hàng thường được vay vốn với những điều khoản hết sức ưu đãi. Chính phủ có thể chỉ định NHTM cho vay với các doanh nghiệp đó hay như một thông lê, các Tổng công ty Nhà nước khi đến Ngân hàng vay vốn tài trợ cho các dự án trọng điểm Quốc gia luôn có được lãi suất rất ưu đãi. Chính phủ - với những chương trình và chính sách của mình không chỉ trực tiếp điều tiết NHTM mà còn ảnh hưởng thông qua khách hàng: các doanh nghiệp.
Quy trình thẩm định – cho vay của Ban tín dụng do Hội sở chính quy định.
Trong quy trình cho vay theo dự án, hoạt động thẩm định dự án đóng vai trò đặc biệt quan trọng với Ngân hàng. Đây là khâu ảnh hưởng tới quyết định cho vay của cán bộ tín dụng và là hoạt động đánh giá khách quan và chính xác nhất mức độ rủi ro của dự án - vấn đề mà Ngân hàng quan tâm hàng đầu. Các hệ thống Ngân hàng khác nhau áp dụng những quy trình thẩm định – cho vay và tổ chức Ban tín dụng khác nhau. Hiện nay có hai hệ thống tổ chức Ban tín dụng chính: mô hình bộ phận thẩm định kiêm chức năng cho vay (mô hình này đang được áp dụng rộng rãi tại Việt Nam) và mô hình bộ phận thẩm định chỉ đóng vai trò tư vấn cho Ban tín dụng hay Ban giám đốc ra quyết định cho vay. Mỗi hệ thống đều có những ưu, nhược điểm riêng.
Quy trình thẩm định – cho vay ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động tín dụng, đồng thời ảnh hưởng tới tâm lý khách hàng. Nếu hệ thống Ngân hàng áp dụng quy trình phù hợp, phát huy được những ưu điểm của những quy trình đó thì hoạt động tín dụng sẽ rất hiệu quả và chính xác. Đó là tiền đề vững chắc cho Ngân hàng có thể nâng cao chất lượng tín dụng. Ngược lại, nếu Ngân hàng vẫn duy trì Ban tín dụng theo mô hình cũ, không tiếp cận với các hệ thống phương pháp hiện đại sẽ không có được tính chính xác cần thiết cho quyết định tín dụng. Cũng có những trường hợp Ngân hàng không