congchuabebong_nho2000
New Member
Download Đề tài Giải pháp thu hút vốn đầu tư các khu công nghiệp tại tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai hiện đang là tỉnh dẫn đầu cảnước vềsốlượng các KCN với 21
KCN đã được thành lập. Trong đó: Giai đoạn từnăm 1995-2000 có 10 KCN được
thành lập với tổng diện tích 2.718 ha (gồm các KCN Biên Hoà I, Biên Hoà II,
Amata, Loteco, Gò Dầu, HốNai, Sông Mây, Nhơn Trạch I, Nhơn Trạch II và Nhơn
Trạch III); Giai đoạn từnăm 2004-2005 cóthêm 6 KCN được thành lập với tổng
diện tích 1.503ha (gồm các KCN Tam Phước, An Phước, Long Thành, Nhơn Trạch
V, Dệt may Nhơn Trạch và KCN Định Quán (KCN miền núi); Đến cuối năm 2005
– đầu năm 2006 thêm 3 KCN được thành lập với tổng diện tích 572ha, bao gồm:
KCN Nhơn Trạch VI, KCN Nhơn Trạch II – Nhơn Phú và KCN Nhơn Trạch II –
Lộc Khang. Năm 2006 có thêm 2 KCN được thành lập.
Ngoài 21 KCN đã được thành lập, hiện nay một số địa điểm trong quy
hoạch đã được giới thiệu cho một số đơn vịcó khảnăng chuẩn bịcác điều kiện, thủ
tục đểlập dựán xin thành lập KCN. Theo quy hoạch đến năm 2010, tỉnh Đồng Nai
sẽcó tổng cộng 34 KCN với diện tích khoảng 10.700 ha được quy hoạch phát triển
theo hai hướng chủyếu:
+ Hướng thứnhất : Biên Hoà – Long Thành – Nhơn Trạch dọc theo trục lộ51 đang
hình thành các KCN, các trung tâm đô thịmới.
+ Hướng thứhai: Dọc theo Quốc 1, Quốc lộ20 nối Biên Hoà với các huyện miền
Bắc tỉnh. Khu vực này sẽ định hình các vùng chuyên canh cây công nghiệp ngắn
ngày, dài ngày, vật nuôi và nông sản hàng hoá, đây là nguồn nguyên liệu quan trọng
đểphát triển công nghiệp chếbiến phục vụcho tiêu dùng, xuất khẩu và chăn nuôi.
Ngoài ra, tỉnh còn quy hoạch bổsung 28 cụm công nghiệp tổng diện tích
khoảng 1.188 ha.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
quyền, Ban quản lý KCN, KKT đã đóng góp nhiều ý kiến trong quá trình xây dựng
Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các Nghị định hướng dẫn; tham gia đề xuất, góp
ý vào quá trình xây dựng, điều chỉnh chính sách phát triển KCN, KKT của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư và các bộ, ban, ngành. Qua cơ chế phân cấp theo Nghị định mới,
Ban quản lý được thực hiện quyền hạn, trách nhiệm một cách chủ động, đồng thời
gắn chặt chẽ với các chế tài giám sát, định hướng, điều chỉnh của các cơ quan trung
ương qua công tác quy hoạch, hướng dẫn, thẩm định dự án…
22
Như vậy, những thành tựu trên đã thể hiện hệ thống KCN, KKT đã tích cực
chuyển sang một giai đoạn phát triển mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo duy trì tốc độ và chất lượng tăng trưởng
theo hướng ổn định, bền vững.
2.1.3 Các điều kiện và tiêu chí hình thành các KCN trên địa bàn lãnh thổ:
+ Phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và tình hình phát triển kinh tế - xã hội;
quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của từng địa phương.
+ Có điều kiện thuận lợi hay có khả năng xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng và hạ tầng xã hội, triển khai đồng bộ và kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch phát
triển KCN, KCX với quy hoạch phát triển đô thị, phân bổ dân cư, nhà ở và các công
trình xã hội phục vụ cho công nhân trong KCN, KCX.
+ Có quỹ dự trữ để phát triển và có điều kiện liên kết thành cụm các KCN;
riêng đối với địa phương thuần tuý đất nông nghiệp, khi phát triển các KCN để thực
hiện mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế cần tiến hành phân kỳ đầu tư chặt chẽ nhằm
đảm bảo sử dụng đất có hiệu qủa.
+ Có khả năng thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài.
+ Có khả năng cung cấp và đáp ứng nhu cầu về lao động.
+ Đảm bảo các yêu cầu về an ninh quốc phòng.
+ Đối với các địa phương đã phát triển KCN, việc thành lập mới các KCN
chỉ được thực hiện khi tổng diện tích đất công nghiệp của các KCN hiện có đã được
cho thuê ít nhất 60%.
+ Việc mở rộng các KCN hiện có chỉ được thực hiện khi tổng diện tích đất
công nghiệp của KCN đó đã được cho thuê ít nhất là 60% và đã xây dựng xong
công trình xử lý nước thải tập trung.
+ Đối với KCN có quy mô diện tích trên 50 ha và có nhiều chủ đầu tư tham
gia đầu tư xây dựng – kinh doanh kết cấu hạ tầng, phải tiến hành lập quy hoạch
chung xây dựng KCN theo hướng dẫn của Bộ Xây dựng trước khi lập quy hoạch chi
23
tiết KCN để đảm bảo tính thống nhất và tính đồng bộ của hệ thống hạ tầng kỹ thuật
KCN.
+ Trong KCN, KCX không có dân cư. Trong KCN có thể có KCX, doanh
nghiệp chế xuất.
2.1.4 Hạn chế các KCN hiện nay
Trong bối cảnh phải thích nghi nhanh với hệ thống pháp luật mới, với yêu
cầu mới của quá trình gia nhập WTO, hệ thống KCN, KKT vẫn bộc lộ một số hạn
chế chưa được khắc phục và xuất hiện một số điểm yếu như sau:
Một là, công tác xây dựng quy hoạch về cơ bản đã đạt kết quả tốt, song vẫn còn
một số địa phương muốn xây dựng thêm KCN không thuộc quy hoạch phát triển
KCN do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, mà không có luận chứng thuyết phục sự
cần thiết phải bổ sung quy hoạch.
Hai là, nhiều Ban quản lý KCN chưa thực sự thích nghi kịp với hệ thống cơ chế,
chính sách mới đã được điều chỉnh. Một số Ban quản lý KCN mới đựoc thành lập
còn chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ mới của mình về quản lý nhà nước về
đầu tư đối với các KCN. Có hệ thống pháp luật mới đã quy định, nhưng một số Ban
quản lý còn nhầm lẫn giữa Giấy phép đầu tư và Giấy chứng nhận đầu tư, thẩm
quyền cấp phép dự án cơ sở hạ tầng KCN thuộc UBND tỉnh, hay một số dự án
thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước đây nay thuôc thẩm
quyền của Ban quản lý KCN…
Ba là, cơ chế, chính sách về quản lý về KCN, KKT theo Luật Đầu tư mới còn nhiều
điểm chưa thống nhất và chưa được đầy đủ. Các cơ chế, chính sách trên các lĩnh
vực khác còn chưa điều chỉnh kịp theo Luật mới, nhiều quy định trong Nghị định
hướng dẫn còn thiếu, gây khó khăn cho các Ban trong quá trình áp dụng (chẳng hạn
về quy hoạch chi tiết KCN, về một số nội dung quản lý nhà nước đối với KCN,
KKT…).
Bốn là, đời sống của người lao động trong KCN đã được quan tâm hơn nhưng nhìn
chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đảm bảo cuộc sống với thu nhập ổn định cho
người công nhân và gia đình.
24
Năm là, công tác bảo vệ môi trường chưa được đẩy mạnh đúng mức. Trong năm
qua, chưa có thêm được KCN nào hoàn thành hệ thống xử lý nước thải tập trung, cả
nước mặc dù đã có 139 KCN nhưng vẫn chỉ có 33 KCN đã vận hành nhà máy xử lý
nước thải tập trung; có thêm một số KCN chuẩn bị xây dựng như một số KCN ở
Đồng Nai…
Sáu là, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các KCN vẫn còn hạn
chế xét về nhiều khía cạnh (lĩnh vực hoạt động, phạm vi hoạt động, chất lượng kết
quả thanh tra, chế tài thanh tra, kiểm tra…). Sự phối hợp giữa các cơ quan chức
năng trong công tác thanh tra còn chưa thật chặt chẽ, chưa có sự phân công, phân
nhiệm rõ ràng. Đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra còn mỏng, phương tiện làm việc
còn hạn chế (đặc biệt là công tác thanh tra kiểm tra công tác bảo vệ môi trường).
Các chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động của KCN về các lĩnh vực kế hoạch, đầu
tư, môi trường… còn thiếu và chưa đảm bảo tính cương quyết.
2.1.5 Những vấn đề cần khắc phục để KCN phát huy hơn nữa vai trò là nhân
tố tích cực trong việc chủ động, tích cực hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Để thực hiện tốt vai trò quan trọng đó, các KCN đang đứng trước nhiều
khó khăn, thách thức cần giải quyết:
+ Trình độ phát triển các KCN chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu
của thời kỳ đổi mới, kể cả tại những địa bàn trọng điểm thu hút vốn đầu tư như Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hiệu quả hoạt động của các KCN trên cùng một
địa bàn cũng như giữa các địa bàn không đồng đều.
+ Hiệu qủa công tác quy hoạch và điều hành thực hiện quy hoạch. Các dự
án tập trung chủ yếu ở những địa bàn thuận lợi như ở các thành phố lớn, gần cảng
biển và sân bay quốc tế . Chưa hình thành hệ thống các KCN gắn với địa bàn nông
nghiệp, nông thôn. Cần tập trung giải quyết các vướng mắc để tiếp tục triển khai đối
với các khu, cụm công nghiệp đã phê duyệt, đảm bảo triển khai thông thoáng nhưng
chặt chẽ.
+ Kết hợp với việc lấp đầy diện tích các KCN với việc nâng cao chất lượng
các dự án đầu tư vào KCN bằng cách chọn lọc và khuyến khích thu hút các dự án có
25
sức cạnh tranh cao và phát triển bền vững. Hiện mức đầu tư/ha đất KCN bình quân
của cả nước khoảng 2 –3 triệuđ/m2 . Số dự án công nghiệp có hàm lượng chất xám
cao, hàm lượng lao động thấp, hiện nay đượ...
Download Đề tài Giải pháp thu hút vốn đầu tư các khu công nghiệp tại tỉnh Đồng Nai miễn phí
Đồng Nai hiện đang là tỉnh dẫn đầu cảnước vềsốlượng các KCN với 21
KCN đã được thành lập. Trong đó: Giai đoạn từnăm 1995-2000 có 10 KCN được
thành lập với tổng diện tích 2.718 ha (gồm các KCN Biên Hoà I, Biên Hoà II,
Amata, Loteco, Gò Dầu, HốNai, Sông Mây, Nhơn Trạch I, Nhơn Trạch II và Nhơn
Trạch III); Giai đoạn từnăm 2004-2005 cóthêm 6 KCN được thành lập với tổng
diện tích 1.503ha (gồm các KCN Tam Phước, An Phước, Long Thành, Nhơn Trạch
V, Dệt may Nhơn Trạch và KCN Định Quán (KCN miền núi); Đến cuối năm 2005
– đầu năm 2006 thêm 3 KCN được thành lập với tổng diện tích 572ha, bao gồm:
KCN Nhơn Trạch VI, KCN Nhơn Trạch II – Nhơn Phú và KCN Nhơn Trạch II –
Lộc Khang. Năm 2006 có thêm 2 KCN được thành lập.
Ngoài 21 KCN đã được thành lập, hiện nay một số địa điểm trong quy
hoạch đã được giới thiệu cho một số đơn vịcó khảnăng chuẩn bịcác điều kiện, thủ
tục đểlập dựán xin thành lập KCN. Theo quy hoạch đến năm 2010, tỉnh Đồng Nai
sẽcó tổng cộng 34 KCN với diện tích khoảng 10.700 ha được quy hoạch phát triển
theo hai hướng chủyếu:
+ Hướng thứnhất : Biên Hoà – Long Thành – Nhơn Trạch dọc theo trục lộ51 đang
hình thành các KCN, các trung tâm đô thịmới.
+ Hướng thứhai: Dọc theo Quốc 1, Quốc lộ20 nối Biên Hoà với các huyện miền
Bắc tỉnh. Khu vực này sẽ định hình các vùng chuyên canh cây công nghiệp ngắn
ngày, dài ngày, vật nuôi và nông sản hàng hoá, đây là nguồn nguyên liệu quan trọng
đểphát triển công nghiệp chếbiến phục vụcho tiêu dùng, xuất khẩu và chăn nuôi.
Ngoài ra, tỉnh còn quy hoạch bổsung 28 cụm công nghiệp tổng diện tích
khoảng 1.188 ha.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
n lý trực tiếp các KCN, KKT trên địa bàn, quá trình thực hiện nhiệm vụ theo ủyquyền, Ban quản lý KCN, KKT đã đóng góp nhiều ý kiến trong quá trình xây dựng
Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các Nghị định hướng dẫn; tham gia đề xuất, góp
ý vào quá trình xây dựng, điều chỉnh chính sách phát triển KCN, KKT của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư và các bộ, ban, ngành. Qua cơ chế phân cấp theo Nghị định mới,
Ban quản lý được thực hiện quyền hạn, trách nhiệm một cách chủ động, đồng thời
gắn chặt chẽ với các chế tài giám sát, định hướng, điều chỉnh của các cơ quan trung
ương qua công tác quy hoạch, hướng dẫn, thẩm định dự án…
22
Như vậy, những thành tựu trên đã thể hiện hệ thống KCN, KKT đã tích cực
chuyển sang một giai đoạn phát triển mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo duy trì tốc độ và chất lượng tăng trưởng
theo hướng ổn định, bền vững.
2.1.3 Các điều kiện và tiêu chí hình thành các KCN trên địa bàn lãnh thổ:
+ Phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và tình hình phát triển kinh tế - xã hội;
quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của từng địa phương.
+ Có điều kiện thuận lợi hay có khả năng xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng và hạ tầng xã hội, triển khai đồng bộ và kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch phát
triển KCN, KCX với quy hoạch phát triển đô thị, phân bổ dân cư, nhà ở và các công
trình xã hội phục vụ cho công nhân trong KCN, KCX.
+ Có quỹ dự trữ để phát triển và có điều kiện liên kết thành cụm các KCN;
riêng đối với địa phương thuần tuý đất nông nghiệp, khi phát triển các KCN để thực
hiện mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế cần tiến hành phân kỳ đầu tư chặt chẽ nhằm
đảm bảo sử dụng đất có hiệu qủa.
+ Có khả năng thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài.
+ Có khả năng cung cấp và đáp ứng nhu cầu về lao động.
+ Đảm bảo các yêu cầu về an ninh quốc phòng.
+ Đối với các địa phương đã phát triển KCN, việc thành lập mới các KCN
chỉ được thực hiện khi tổng diện tích đất công nghiệp của các KCN hiện có đã được
cho thuê ít nhất 60%.
+ Việc mở rộng các KCN hiện có chỉ được thực hiện khi tổng diện tích đất
công nghiệp của KCN đó đã được cho thuê ít nhất là 60% và đã xây dựng xong
công trình xử lý nước thải tập trung.
+ Đối với KCN có quy mô diện tích trên 50 ha và có nhiều chủ đầu tư tham
gia đầu tư xây dựng – kinh doanh kết cấu hạ tầng, phải tiến hành lập quy hoạch
chung xây dựng KCN theo hướng dẫn của Bộ Xây dựng trước khi lập quy hoạch chi
23
tiết KCN để đảm bảo tính thống nhất và tính đồng bộ của hệ thống hạ tầng kỹ thuật
KCN.
+ Trong KCN, KCX không có dân cư. Trong KCN có thể có KCX, doanh
nghiệp chế xuất.
2.1.4 Hạn chế các KCN hiện nay
Trong bối cảnh phải thích nghi nhanh với hệ thống pháp luật mới, với yêu
cầu mới của quá trình gia nhập WTO, hệ thống KCN, KKT vẫn bộc lộ một số hạn
chế chưa được khắc phục và xuất hiện một số điểm yếu như sau:
Một là, công tác xây dựng quy hoạch về cơ bản đã đạt kết quả tốt, song vẫn còn
một số địa phương muốn xây dựng thêm KCN không thuộc quy hoạch phát triển
KCN do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, mà không có luận chứng thuyết phục sự
cần thiết phải bổ sung quy hoạch.
Hai là, nhiều Ban quản lý KCN chưa thực sự thích nghi kịp với hệ thống cơ chế,
chính sách mới đã được điều chỉnh. Một số Ban quản lý KCN mới đựoc thành lập
còn chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ mới của mình về quản lý nhà nước về
đầu tư đối với các KCN. Có hệ thống pháp luật mới đã quy định, nhưng một số Ban
quản lý còn nhầm lẫn giữa Giấy phép đầu tư và Giấy chứng nhận đầu tư, thẩm
quyền cấp phép dự án cơ sở hạ tầng KCN thuộc UBND tỉnh, hay một số dự án
thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước đây nay thuôc thẩm
quyền của Ban quản lý KCN…
Ba là, cơ chế, chính sách về quản lý về KCN, KKT theo Luật Đầu tư mới còn nhiều
điểm chưa thống nhất và chưa được đầy đủ. Các cơ chế, chính sách trên các lĩnh
vực khác còn chưa điều chỉnh kịp theo Luật mới, nhiều quy định trong Nghị định
hướng dẫn còn thiếu, gây khó khăn cho các Ban trong quá trình áp dụng (chẳng hạn
về quy hoạch chi tiết KCN, về một số nội dung quản lý nhà nước đối với KCN,
KKT…).
Bốn là, đời sống của người lao động trong KCN đã được quan tâm hơn nhưng nhìn
chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đảm bảo cuộc sống với thu nhập ổn định cho
người công nhân và gia đình.
24
Năm là, công tác bảo vệ môi trường chưa được đẩy mạnh đúng mức. Trong năm
qua, chưa có thêm được KCN nào hoàn thành hệ thống xử lý nước thải tập trung, cả
nước mặc dù đã có 139 KCN nhưng vẫn chỉ có 33 KCN đã vận hành nhà máy xử lý
nước thải tập trung; có thêm một số KCN chuẩn bị xây dựng như một số KCN ở
Đồng Nai…
Sáu là, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các KCN vẫn còn hạn
chế xét về nhiều khía cạnh (lĩnh vực hoạt động, phạm vi hoạt động, chất lượng kết
quả thanh tra, chế tài thanh tra, kiểm tra…). Sự phối hợp giữa các cơ quan chức
năng trong công tác thanh tra còn chưa thật chặt chẽ, chưa có sự phân công, phân
nhiệm rõ ràng. Đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra còn mỏng, phương tiện làm việc
còn hạn chế (đặc biệt là công tác thanh tra kiểm tra công tác bảo vệ môi trường).
Các chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động của KCN về các lĩnh vực kế hoạch, đầu
tư, môi trường… còn thiếu và chưa đảm bảo tính cương quyết.
2.1.5 Những vấn đề cần khắc phục để KCN phát huy hơn nữa vai trò là nhân
tố tích cực trong việc chủ động, tích cực hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Để thực hiện tốt vai trò quan trọng đó, các KCN đang đứng trước nhiều
khó khăn, thách thức cần giải quyết:
+ Trình độ phát triển các KCN chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu
của thời kỳ đổi mới, kể cả tại những địa bàn trọng điểm thu hút vốn đầu tư như Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hiệu quả hoạt động của các KCN trên cùng một
địa bàn cũng như giữa các địa bàn không đồng đều.
+ Hiệu qủa công tác quy hoạch và điều hành thực hiện quy hoạch. Các dự
án tập trung chủ yếu ở những địa bàn thuận lợi như ở các thành phố lớn, gần cảng
biển và sân bay quốc tế . Chưa hình thành hệ thống các KCN gắn với địa bàn nông
nghiệp, nông thôn. Cần tập trung giải quyết các vướng mắc để tiếp tục triển khai đối
với các khu, cụm công nghiệp đã phê duyệt, đảm bảo triển khai thông thoáng nhưng
chặt chẽ.
+ Kết hợp với việc lấp đầy diện tích các KCN với việc nâng cao chất lượng
các dự án đầu tư vào KCN bằng cách chọn lọc và khuyến khích thu hút các dự án có
25
sức cạnh tranh cao và phát triển bền vững. Hiện mức đầu tư/ha đất KCN bình quân
của cả nước khoảng 2 –3 triệuđ/m2 . Số dự án công nghiệp có hàm lượng chất xám
cao, hàm lượng lao động thấp, hiện nay đượ...