tran_thuy_phuong
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Ket-noi
PHẦN I
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CHIẾM HỮU NÔ LỆ
Chương 1
NHÀ NƯỚC PHƯƠNG ĐÔNG THỜI KỲ cớ ĐẠI
1. Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của nhà nước phương Đông cổ đại
1 1 Cơ sở hình thành nhà nước
1.1.1 Điều kiện tự nhiên
Về vị trí địa lý: Ai Cập, Lưỡng Hà, ấn ĐỘ và Trung Quốc hoàn toàn lách biệt nhau. nhưng giữa chúng có những điểm chung cơ bản về điều kiện tự nhiên như sau:
Một là, các quốc gia này đều nằm trên lưu vực các con sông lớn như sông Ni le (Ai Cập), sông Tigris và sông Euphrates (Lưỡng Hà), sông Hằng và sông ấn (Ấn Độ), sông Hoàng Hà và sông Trường Giang (Trung Quốc).
Hai là, khí hậu nhiệt đới : mưa nhiều, độ ẩm cao.
Ba là, có địa hình phức tạp và khép kín.
Ai Cập ở Đông Bắc châu Phi, với địa hình hầu như biệt lập với thế giới bên ngoài bởi bốn phía biên giới của Ai Cập là biến, rừng rậm và sa mạc. Người Ai Cập cổ đại chi có thể qua lại vùng Tây Á bằng eo đất Xinai rất hẹp ở phía Đông Bắc.
An ĐỘ ở Nam A và được ví như một tiểu lực địa vì bị ngăn cách với phần còn lại bởi dãy núi Hymalaya cao nhất thế giới.
Trung Quốc ở phía Đông châu á, bị ngăn cách với phần còn lại bởi sa mạc Nội - Ngoại Mông.
Lưỡng Hà, trong bốn quốc gia, là có địa hình tương đối mở, nhưng cũng bao bọc nó là sa mạc và thảo nguyên mênh mông.
Những đặc điểm về điều kiện tự nhiên trên, trong thời kỳ cổ đại chúng có nhiều ảnh hưởng đến nền kinh tế - xã hội của các quốc " gia ở đây. Những ảnh hưởng này có tác động rất lớn đối với quá trình ra đời của nhà nước ở đây.
Một là, với những đồng bằng rộng lớn. không ngừng được bồi đắp phù sa màu mỡ bởi các con sông lớn, cùng với khí hậu nhiệt đới đã thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp tưới tiêu phát triển từ rất sớm.
Hai là, để sản xuất nông nghiệp trên diện rộng và tránh thiên tai, lũ !ụt do các con sông tạo ra nên việc xây dựng các công trình thủy lợi được chú trọng từ rất sớm, trở thành nhu cầu cơ bản trong đời sống xã hội của cư dân phương Đông cổ đại.
Ba là, địa hình khép kín phức tạp làm cho việc sinh sống ở các đồng bằng dọc theo các con sông lớn rất thuận lợi, còn ở những nơi khác là vô cùng khó khăn nêrt từ rất sớm cư dân sớm tập trung sinh sống ở các khu vực đồng bằng Hệ quả là từ việc tranh giành nguồn đất, nguồn nước để tồn tại và mở rộng thế lực nên từ rất sớm nhu cầu tổ chức chiến tranh đã hình thành và cũng trở thành nhu cầu cơ bản đối với dân cư phương Đông cổ đại.
1 1 2 Những thay đổi kinh tế - xã hội dẫn đến hình thành nhà nước
* Điều kiện kinh tế
Vào khoảng thiên niên kỷ thứ IV TCN, công cụ lao động bằng đồng xuất hiện. Hoạt động sản xuất với công cụ lao động bằng đồng đã sớm giúp cư dân phương Đông có cuộc sống định canh, định cư trên các đồng bằng phì nhiêu, màu mỡ. Từ đó, xã hội phương Đông bắt đầu có sự phân công lao động. Vì nền kinh tế chủ đạo ở phương đông là nông nghiệp nên sự công lao động không rõ ràng và tách bạch như ở phương Tây. Tuy nhiên, nó cũng đã làm cho năng suất lao động tăng và sản phẩm dư thừa ban đầu xuất hiện. Tư liệu sản xuất chủ yếu là ruộng đạt ở phương Đông tồn tại phổ biến dưới chế độ công hữu do hoạt động sản xuất nông nghiệp hầu nhu hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên (khí hậu, lịch trình của các con sông). Vì thế, chế độ tư hữu xuất hiện nhưng chậm chạp và chủ yếu là tư liệu sinh hoạt.
* Điều kiện xã hội .
Khi kinh tế phát triển các tiều gia đình trong đại gia đình thị tộc có xu hướng thoát ly khỏi công xã thị tộc để sinh sống riêng. LÚC này, quan hệ huyết thống không còn đủ sức để ràng buộc các cá nhân chung sống với nhau nên công xã thị tộc tan rã. Thay thế các công xã thị tộc là công xã láng giềng mà ở phương Đông đa phần là các công xã nông thôn - là đơn vị xã hội tồn tại lâu đời và có nhiều ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, xã hội, chính trị phương Đông.
Mặt khác, khi công xã thị tộc tan rã cũng là lúc chế độ tư hữu xuất hiện. Đó là quá trình mà thiểu số chức sắc trong xã hội nguyên thủy như: tộc trưởng. tù trưởng, thủ lĩnh liên minh bộ lạc chiếm được nhiều tài sản làm của cải riêng. HỌ dựa vào sức mạnh ưu thế của mình để cướp bóc, chiếm đoạt tài sản, ruộng đất của các thành viên trong bộ lạc của mình. Đồng thời, họ chỉ huy tiến hành chiến tranh cướp tài sản của các bộ lạc khác, biên dân cư của những bộ lạc chiến bại thành nô lệ nên họ càng ngày càng giàu có và họ trở thành quý tộc thị tộc. Còn đại đa số dân cư trở thành nông dân công xã giữ được một ít tài sản. Tuy nhiên, sự phân hóa giai cấp do tác động của điều kiện kinh tế nông nghiệp và chế độ công hữu về ruộng đất nên diễn ra chậm chạp và mâu thuẫn giai cấp chưa thật sâu sắc.
Theo học thuyết của Mác - Lênin về nguồn gốc nhà nước, khi mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên gay gắt, không thể tự điều hòa được thì giai cấp mạnh hơn sẽ thành lập một tồ chức để đàn áp sự đối kháng của các giai tầng khác, đồng thời quản lý xã hội theo một khuôn khổ nhất định, phù hợp với ý chí của họ để đảm bao duy trì sự thống trị về mặt giai cấp. Tổ chức đó gọi là nhà nước.
Trong khi đó, mặc dù, ở các quốc gia phương Đông cổ đại, mâu thuẫn giai cấp chưa đến mức gay gắt và sâu sắc, nhưng nhà nước vẫn xuất hiện và xuất hiện rất sớm. Nguyên nhân là chịu sự tác động và thúc đẩy của nhu cầu trị thủy, thủy lợi và chiến tranh.
Tóm lại, quá trình trên thể hiện nét đặc thù của phương Đông cổ đại Bởi vì, ngoài sự phân hóa giai cấp vận động theo quy luật chung, quá trình hình thành nhà nước ở vùng này còn bị ảnh hưởng bởi hoạt động trị thủy và chiến tranh. Tuy nhiên, hai yếu tố này đóng vai trò thúc đẩy nhanh tiến trình hình thành nhà nước, còn nguyên nhân chính dẫn đến sự xuất hiện nhà nước vẫn là sự phân hóa giai cấp.
1.2 Lịch sư hình thành, phát triển và suy vong
1.2.1 Ai Cập
Lịch sử cổ đại của Ai Cập trải qua 4 thời kỳ gồm: Tảo kỳ vương quốc, CỔ vương quốc, Trung vương quốc, Tân vương quốc. Về mặt thời gian là vào khoảng cuối thiên niên kỷ thứ IV TCN đến năm 225 TCN khi Ai Cập bị đế quốc Ba Tư thôn tính.
1.2.2 Lưỡng Hà
Lịch sử cỗ đại của Lưỡng Hà là quá trình thay thế thống trị giữa các tộc người 'Xu - me, người Xê - Mít, người Amôrít. . . Về thời gian, từ đầu thiên niên kỷ thứ I]I TCN khi ở Lưỡng Hà xuất hiện các quốc gia thành thị (Ua, Lagash. . . ) đến năm 53 8 Lưỡng Hà bị Ba~tư xâm chiếm. Trong đó thời gian từ thế kỷ XIX - XVIII TCN, thời kỳ Vương quốc cố Babylon là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất.
1.2.3 ấn độ
Đầu thiên niên kỷ 111 TCN đến giữa thiên niên kỷ thứ 11 TCN, ở Ấn Độ đã tồn tại nền văn minh Harappa và Môhenjo - Dao ở lưu vực sông án. Lịch sử cổ đại của Ấn Độ kéo dài từ đó cho đến thế kỷ IV SCN với sự xuất hiện của vương triều Gupta là bước ngoặc đánh dấu sự xuất hiện chế độ phong kiến ở án Độ. Trong đó, có hai vương triều thể hiện sự hưng thịnh và thống nhất của Ấn Độ cô đại là vương triều Magada (thế kỷ VI TCN) và vương triều Morya (cuối thế kỷ IV T~N).
1.2.4 Trung Quốc
Lịch sử cổ đại của Trụng Quốc trải qua 3 triều đại: Hạ, Thương, Chu. Triều Hạ, năm 2140 TCN, Khải là con của Hạ Vũ tuy không được cộng đồng bầu cử nhưng vẫn kế vị của cha, mở đầu cho chế độ cha truyền con nối, nhà nước đầu tiên của Trung Quốc xuất hiện. Năm 171 1 TCN, nhà Thương thay thế nhà Hạ. Vị vua cuối cùng của nhà Thương là Trụ Vương thực hiện chính sách cai trị tàn bạo nên bị nhà Chu lật đổ. Nhà Chu chia làm hai thời kỳ: Tây Chu (l066 - 770 TCN) và Đông Chu (769 - 256 TCN). Tây Chu là thời kỳ thịnh trị của nhà Chu, Đông Chu là giai đoạn suy yếu và lụi tàn. Thời kỳ Đông Chu gồm Xuân Thu và Chiến Quốc, là giai đoạn các chư hầu xưng bá, chiến tranh thôn tính lẫn nhau. Năm 256 TCN, nhà Chu bị nhà Tần lật đổ. Năm 221 TCN, nhà Tần thống nhất Trung Quốc, mơ đầu thời kỳ phong kiến của Trung Quốc.
2. Chế độ xã hội thương Đông cổ đại
Vấn đề này chủ yếu đề cập đến sự phân tầng trong xã hội phương Đông cổ đại và sự tương tác của các giai tầng đó. Nghiên cứu chế độ xã hội phương Đông cỗ đại với mục đích hiếu rõ hơn bản chất nhà nước và pháp luật của các quốc gia phương Đông cổ đại.
2. 1 Kết cấu giai cấp
Trong xã hội lúc này hình thành 3 giai tầng chính, đó là chủ nô, nô lệ và nông dân công xã.
* Giai cấp chủ nô
Gồm có: quý tộc thị tộc (vua, quan lại); quý tộc tăng lữ và những người giàu có khác. .Họ đồng thời là giai cấp thống trị trong xã hội, nắm giữ nhiều ruộng đất, của cải trong cả nước; đồng thời có nhiều quyền lợi chính trị.
* Giai cấp nô lệ
Nguồn chủ yếu của nô lệ gồm: tù binh chiến tranh, nông dân công xã bị phá sản và con của nô lệ.
NÔ lệ không có quyền lợi về kinh tế, chính trị, thậm chí bị xem là đồ vật hay công cụ lao động, thuộc quyền sở hữu của chủ nô (chủ nô có quyền bán, chuyển nhượng, trao tặng hay giết nô lệ của mình). Toàn bộ sản phẩm lao động do họ làm ra đều thuộc quyền sở hữu của chủ nô.
NÔ lệ trong xã hội phương Đông cổ đại mang nặng tính gia trưởng vì:
Một là, số lượng nô lệ không chiếm đa số trong xã hội;
Hai là, lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội không phải là nô lệ mà là nông dân công xã, nô lệ chủ yếu làm công việc hầu hạ, phục địch trong nhà chủ nô;
Ba là, máu thuẫn đối kháng giai cấp trong xã hội không phải là mâu thuẫn. giữa chủ nô và nô lệ mà lại là mâu thuẫn giữa chủ nô và nông dân công xã.
* Nông dân công xã
Nông dân chiếm đa số và là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội, sống trong các công xã nông thôn. Phần lớn họ là những người nghèo, ít ruộng đất phải nhận ruộng đất của nhà nước từ các công xã nông thôn để cày cấy và đóng thuế cho nhà nước hay thuê ruộng của các chủ nô và nộp tiền thuê đất hay hoa lợi thu hoạch được.
HỌ được quyền làm người nhưng là đối tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp chủ nô. Ngoài ra, họ còn phải cùng với nô lệ lao động khổ sai đề xây dựng các công trình cho nhà nước.
Bên cạnh đó, còn có tầng lớp thợ thủ công, thương nhân, chiếm thiều số trong dân cư. Thành phần của họ khá phức tạp nhưng nhìn chung họ là những người nghèo, chịu sự bóc lột của giai cấp chủ nô.
Như vậy trong xã hội phương Đông cổ đại kết cấu giai cấp đã hoàn chỉnh. Giai cấp thống trị bao gồm chủ nô như vua, quan lại, tăng lữ, người giàu có. Giai cấp bị trị bao gồm nô lệ, nông dân công xã, thợ thủ công và thương nhân.
2.2 Quan hệ giai cấp
Quan hệ giai cấp giữa giai cấp thống trị và toàn thể các giai tầng bị trị trong xã hội phương Đông cô đại là mâu thuẫn đối kháng. Cụ thể là mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô với nông dân công xã, nô lệ và thợ thủ công, thương nhân.
Đặc điểm của quan hệ giai cấp trong xã hội phương Đông cổ đại được thể hiện ở một số khía cạnh chủ yếu sau:
Trước hết, tuy nội bộ giai cấp thống trị đa dạng về thành phần (quý tộc thị tộc, quý tộc tăng lữ, những người giàu có khác) nhưng chúng thống nhất trước sự đấu tranh của nhân dân lao động. Nghĩa là nội bộ giai cấp thống trị không có sự cạnh tranh, đối kháng với nhau, mà là sự thống nhất chặt chẽ và hỗ trợ nhau để duy trì lợi ích thống trị về mặt giai cấp.
Thứ hai, mặc dù được xác định là chế độ chiếm hữu nô lệ nhưng với tính chất gia trưởng cho nên quan hệ giữa chủ nô và nô lệ không đóng vai trò là mâu thuẫn giai cấp chủ đạo trong xã hội phương Đông co đại.
Thứ ba, mâu thuẫn chủ đạo là mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nông dân công xã. Nguyên nhân xuất phát từ ngành kinh tế giữ vai trò chủ đạo là kinh tế nông nghiệp. Do vậy, lực lượng nông dân công xã chiếm số lượng áp đảo trong xã hội và là lực lượng sản xuất chính. Theo đó, giai cấp chủ nô muốn giàu có và duy trì địa vị thống trị trong xã hội không cách nào khác hơn là bóc lột trực tiếp nông dân công xã. Vì thế, mâu thuẫn giữa hai giai cấp này trở thành mâu thuẫn cơ bản trong xã hội phương Đông cổ đại.
2.3 Chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ cổ đại
Bên cạnh sự phân hóa xã hội thành giai cấp, xã hội phương Đông còn phân biệt dân cư theo đẳng cấp. Chế độ đẳng cấp ở Ấn ĐỘ là chế độ đẳng cấp điển hình ở phương Đông cổ đại và cả trong lịch sử thế giới cổ dại. Chế độ đẳng cấp ở Ấn ĐỘ cổ đại được hình thành từ Rig Veda. Về mặt thời gian, vào khoảng 1000 TCN, chế độ dẳng cấp này bắt đầu xuất hiện rõ nét, được gọi là chế độ Vacna, trong tiếng Phạn gọi là "màu sắc, thực chất".
Truyền thuyết cho rằng các đẳng cấp khác nhau trong xã hội hình thành từ các bộ phận trên cơ thề của thần Brahma vị thần tối cao, có 4 đẳng cấp:
* Đẳng cấp Bàlamôn
Gồm tăng lữ Bàlamôn còn gọi là Brahman, là đẳng cấp cao quý nhất, được sinh ra từ miệng thần Brhama, đọc kinh, giảng đạo, không phải lao động sản xuất ra của cải vật chất. Đẳng cấp này thâu tóm quyền lực về văn hóa và tôn giáo, một số tham gia vào công việc triều chính như làm cố vấn . . .
* Đẳng cấp Ksatria
Đẳng cấp Ksatria, theo Rig Veda, được sinh ra từ tay của thần Brahma. HỌ họp thành tập đoàn quý tộc quân sự - hành chính, nắm quân đội và chính quyền. Đó là vua, quan lại và binh sĩ
* Đẳng cấp Vaishya
Gồm những người làm nông nghiệp, buôn bán và thợ thủ công, sinh ra từ đùi của thần Brhama. HỌ có nghĩa vụ sản xuất để nuôi sống 2 đẳng cấp trên. HỌ thuộc tầng lớp bình dân, có một số giàu có lên. HỌ tuy không có những đặc quyền trong xã hội, phải nộp thuế, phục vụ lớp người bóc lột thuộc hai tầng lớp trên, song họ vẫn có thân phận tự do.
* Đẳng cấp Shudra
Là những người cùng khổ nhất trong xã hội, là con cháu của các bộ lạc bại trận, không có tư liệu sản xuất và ở ngoài công xã nhưng không phải là nô lệ, nô lệ không được xếp vào đẳng cấp. Đẳng cấp này được sinh ra từ bàn chân của thần Brahma. HỌ làm những công việc nặng nhọc nhất, nhưng không được pháp luật bảo hộ, không được tham gia vào các hoạt động tôn giáo. Nếu một Shudra nghe trộm tụng kinh thì sẽ bị đổ thiếc nung chảy vàn tai.
Sự phân biệt đẳng cấp ở Ấn Độ rất khắc nghiệt, kéo theo sự phân biệt đối xử sâu sắc trong xã hội .
Người ở đẳng cấp dưới có nghĩa vụ phải tôn kính người ở đẳng cấp trên. Kinh tôn giáo Bàlamôn từng ghi rõ: "Một người Bà lamôn dưới 10 tuổi cũng có thể được coi là cha của một kẻ ở đẳngcấp dưới, dù cho kẻ ấy đã 100 tuổi".
Kết hôn phải cùng đẳng cấp, người đàn ông ở đẳng cấp cao hơn có quyền lấy người phụ nữ ở đẳng cấp dưới làm vợ. Nếu người đàn ông ở đẳng cấp dưới dám lấy một phụ nữ ở đẳng cấp cao trên làm vợ thì con của họ được xếp vào hạng "tiện dân". Thân phận "tiện dân" vô cùng thê thảm, họ bị đặt ra ngoài vòng xã hội và không được tiếp xúc với con người.
Chế độ đẳng cấp Vacna ảnh hưởng sâu sắc đến tổ chức quản lý nhả nước và quy định pháp lý ở Ấn Độ cổ đại.
3. To chúc bộ máy nhà nước
3. 1 MÔ hình tổ chức bộ máy nhà nước
3. 1.1 Các cơ quan nhà nước ở trung ương
* Vua
Là người đứng đầu nhà nước; có quyền lực tối cao. Mọi mệnh lệnh của vua có giá trị thi hành như pháp luật. Vua có quyền quyết định mọi vấn đề quan trọng của quốc gia, quyết định bổ nhiệm, cách chức, trừng phạt bất cứ ai, có thẩm quyền xét xử cao nhất và là chỉ huy quân sự cao nhất. Bên cạnh đó, vua được thần thánh hóa, được xem là con hay thay mặt hay chính là hiện thân của thần linh.
* Quan đầu triều :
Là người thân tín nhất của nhà vua, nắm giữ các công việc quan trọng trong triều.
* Hệ thống các cơ quan giúp việc:
Gồm một số quan lại cao cấp. Tùy từng nơi, tìm thời kỳ mà có sự phân công nhiệm vụ. quyền hạn rõ ràng hay không.
3. 1. 2 Bộ máy nhà nước ở địa phương
Quản lý nhà nước ở địa phương thường dựa vào công xã nông thôn. Người có quyền quản lý là người của chính địa phương đó (vương công, tù trưởng. . . ). Quyền lực của họ như một vị vua ở địa phương, quyết định những van đề ở địa phương. Do đó, khi chính quyền trung ương suy yếu, họ là những thế lực phản loạn, nổi dậy chống lại chính quyền trung ương, thành lập nhà nước riêng, tạo nên trạng thái cát cứ phân quyền. Sau mỗi lần cát cứ như thế. chính quyền trung ương thực hiện nhiều biện pháp để quản lý chặt chẽ hơn địa phương.
3.2 Tổ chức bộ máy nhà nước ở từng quốc gia
3.2.1 Ai Cập
* Ở trung ương
- Vua:
Ở Ai Cập, vua được gọi là Pharaông, có quyền lực vô hạn.
Về kinh tế, Pharaông là chủ sở hữu tối cao đối với ruộng đất trong cả nước. Hầu như không phân biệt tài sản của nhà nước và tài sản của vua.
Về chính trị, Pharaông có quyền lực tuyệt đối, là người đứng đầu bộ máy nhà nước, nắm giữ và kiểm soát cả hệ thống quan lại ở trung ương và đỉa phương. Vua còn là người chỉ huy quân đội tối cao.
Về tư tưởng, Pharaông được thần thánh hỏa, được xem là "vị thần vĩ đại", "vị thần cao quý".
- Quan đầu triều:
Quan đầu triều ở Ai Cập gọi là Vidia (Vizir). Quyền lực của vidia chỉ sau Pharaông, thường là con của Pharaông. Vidia là người giúp vua cai quản bộ máy quan lại, nắm hầu hết những công việc quan trọng của nhà nước. Tuy nhiên, đôi khi Vidia nắm không hết các quyền hạn đó bởi vì còn có nhiều quan lại khác cũng thường là người trong hoàng tộc.
20. a. (Ulpimus I, 1, 2, D XXVI, lo): Cần chú ý rằng sự buộc tội (người bảo trợ về hành động thiếu lương tâm của người đó) là rút ra từ luật XIL bảng).
20. b. (Triphonianus * I, I, 1 55, D, XXVI, 7). Trong trường hợp người .bảo trợ biển thủ tài sản của người dưới quyền, thì phải xác định rằng có nên xừ phạt gấp đôi đối với mọi người bảo trợ, theo đã được quy định trong XII bảng không.
21. Người chủ nào mà làm hại đến người phụ thuộc [mình] thì đáng giao cho Diêm - vương ( nghĩa là đáng nguyền rủa).
22. Nếu [người nào tham gia [vào việc thực hiện hợp đồng] với tư cách là người làm chứng hay người cân lường, [rồi sau] lại từ chối làm chứng việc đó, thì [người đó bị coi] là không giữ danh dự và bị mất quyền làm chứng.
23. Anlius Heúius (Đêm Altích, XX, l,53): Theo luật XII bảng, kẻ bị phát hiện làm chứng giả mạo phải bị ném xuống vách núi Tacpê.
24a. (Plinicus (Lịch sử tự nhiên, XVIII, 3, 12, 8 - 9): Theo XII bảng. tội bí mật phá hoại mùa màng [bị xử] tử hình. . . . nặng hơn tội giết người).
25. Gaius (l.236, pí. D, L, 16): Nếu có người nào đó hỏi về chất độc thì cần thêm rằng người nào đó muốn được làm lợi hay làm hại đến sức khoẻ, vì thuốc cũng là chất độc).
26. (Porcicus, Lam po (Decl in Catiú, 19): như chúng ta đã biết, trong XII bảng ghi là không ai được tổ chức những cuộc tụ họp ban đêm ở thành phố).
27. (Gaius (I, 4, D, XL, VII, 22): Luật XII bảng cho phép các thành viên coúegin ~ [của xã hội] quyền kí kết với nhau một thoả ước, miễn là họ không phá hoại điều quy định của một số ai đó, có liên quan tới trật tự xã hội. Luật đó, dường như mượn ở luật pháp của Solon).
BẢNG IX
1 2: (Cicero (Về luật pháp, III 4, 11, 19, 44): Không ai được đòi hỏi đặc quyền [nghĩa là vì lợi ích của mình mà vi phạm pháp luật] Những án xử tử hình công dân La Mã không được duyệt ở đâu ngoài Comitia centunata.
Luật XII bảng nổi tiếng có 2 điểm, trong đó điểm thứ nhất nhằm loại trừ mọi sự vi phạm luật pháp đề mưu lợi cá nhân và điểm thứ hai nhằm cấm thông qua án tử hình đối với công dân Rôm ngoài Comitia centuriata).
3. (Aulius Heúius (Đêm áttích, XX, 17): "Phải chăng là khắc nghiệt, cái điều luật xử tử hình thẳm phán hay nhân chứng nào bị gọi ra trước tòa để xét xử một việc và đã phải thú nhận là đã nhận là đã nhận một khoản tiền thù lao về việc [đó]?".
4. (Pompeius (l, 2, 23, D, l,2), Questorr nào chứng kiến việc thi hành án tử hình gọi là các hình quan, trong luật XII bảng cũng nói cả tới những người này).
5. (Marcianus (l.3, D, XLVIII, 4): Luật XIL bảng ra lệnh xử tử hình kẻ nào xúi giục quân thù của nhân dân Rôm tấn công Nhà nước Rôm hay kè nào nộp một công dân La Mã cho kẻ thù).
6. (Salvianus (Về quyền của thần thánh, VIII, 5): những điều quy định của XIL bảng cấm sát hại một cách phi pháp một người, cho dù người đó là thế nào đi nữa).
BẢNG X
1 Tử thi không được chôn và thiêu ở trong thành phố.
2. Không ai được làm hơn điều đó. Củi dùng vào [việc hoả thiêu người chết] không được chẻ bằng rìu.
3. (Cicero (Về luật pháp, II, 23, 59): " Sau khi hạn chế chi phí [ về việc ma chay] là chỉ được dùng 3 mảnh vải liệm, một áo áo dài đỏ thẫm và 10 cái sáo, luật XIL bang cũng cấm than khóc (người chết)".
4. trong việc ma chay] đàn bà không được cào cấu má và không được than khóc người chết.
5. Không được thu thập xương của từ thi để sau đó đem mai táng, (Cicero (Về luật pháp, II, 23, 59): chỉ trường hợp chết ở trên chiến trường hay ở nước ngoài.
6a. (Cicero, về luật pháp. II, 23, 59: "Ngoài ra, luật pháp còn xác định [những nguyên tắc ] sau đây: bỏ việc xoa dầu thơm tắm rửa của nô lệ và uống bằng cốc tròn, không vẩy nước long trọng, không dùng dây hoa dài, không có lư hương
6 b. (Phestus (Da verb, sigmf 1 54): Luật XIL bảng quy định là không được đặt trước người chết đồ uống có pha dầu thơm).
7. (Nếu một người nào được tặng vòng hoa, hay là cho chính mình. hay cho ngựa hay nô lệ của mình [đã tham gia cuộc thi đấu], hay nếu vòng hoa tặng cho người đó vì lòng tốt của người đó, thì khi chết đi, cũng không cấm đặt vòng hoa ở nhà người chết cũng như ở Forum, đối với người thân thích của người đó cũng được phép đeo vòng hoa khi dự tang lễ
8. Cũng không được chôn vàng theo người chết. Nhưng nếu ở răng người chết có bịt vàng thì cũng không cấm chôn hay thiêu người chết cùng với vàng.
9. Cicero (Về luật pháp II, 24, 61) : "Luật ( XII bảng) cấm đặt hài cốt hay phần mọ người chết nhà cửa của.người khác dưới 60 chân nếu không được người đó đồng ý".
10 (Cicero ( Về luật pháp, li, 24, 6 1 ): Luật pháp cấm không được kiếm chỗ chôn cất theo tục cũ cũng như cả chỗ thiêu xác).
BẢNG XI
1. (Cicero (Về chế độ cộng hòa, II, 36…36) [Ủy ban – 10 người khóa hai] đã thêm hai bảng gồm những điều luật ưu tiên [trong đó] đã phê chuẩn điều luật vô nhân đạo nhất là cấm kết hôn giữa plebs và patriui
2. (Macrobius, Sat, I, 13, 21): Ủy ban – 10 người thêm hai bảng, đề nghị nhân dân chuẩn y sửa đổi lịch
BẢNG XII
1. (Gaius, Hiến pháp, IV, 28: Việc chiếm đoạt đồ vật nhằm mục đích thanh toán nợ nần cũng được ghi trong luật pháp và theo luật XII bảng thì điều đ1o cũng được xác định để xử người nào có súc vật dùng vào việc hiến lễ mà chưa trả tiền theo giá mua, và cũng xử cả người nào chưa trả tiền công thuê súc vật tải đồ, với lí dùng tiền công thuê để sửa một bữa tiệc hiến lễ)
2 a. Nếu nô lệ ăn trộm hay gây ra thiệt hại
2 b. (Gaius (Hiến pháp IV, 75, 76)” Những vụ phạm tội do người dưới quyền hay nô lệ gây ra mà đưa đến bị kiện cáo về sự thiệt hại, thì người chủ nhà hay người sở hữu nô lệ có trách nhiệm hay là đền bù giá tổn hại, hay đưa kẻ phạm tội ra tòa… những vụ kiện cáo [như thế] là do luật pháp hay sắc lệnh của pretor định ra. [Thuộc về] những vụ kiện do luật pháp định chẳng hạn như kiện cáo về trộm cắp là do luật XII bảng định ra)
3 (Festus, De verb, Sigrig. 174) Nếu mang (đến tòa) một vật giả mạo, hay chối cải lại [chính cái chứng cớ] của tỏa án thì pretor cử 3 người làm chứng và theo quyết định của những người này mà phải bồi thường thiệt hại gấp đôi giá [vật tranh chấp]
4 (Gaius, 3, D,XL, IV, 6: Luật XII bảng cấm đem cúng cho đền miếu vật nào đã bị đem xét xử ở tòa án, nếu cứ làm thế, sẽ phải nộp phạt gấp đôi giá vật, nhưng không hề nghe nói rõ rằng khoản tiền phạt đó phải nộp cho Nhà nước hay cho người đòi nhận vật đó
5 (Livius, VII, 17, 12: Trong luật XII bảng có khoản quy định rằng từ nay về sau, mọi quyết nghị của hội nghị nhân dân phải có hiệu lực như luật pháp
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
PHẦN I
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CHIẾM HỮU NÔ LỆ
Chương 1
NHÀ NƯỚC PHƯƠNG ĐÔNG THỜI KỲ cớ ĐẠI
1. Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của nhà nước phương Đông cổ đại
1 1 Cơ sở hình thành nhà nước
1.1.1 Điều kiện tự nhiên
Về vị trí địa lý: Ai Cập, Lưỡng Hà, ấn ĐỘ và Trung Quốc hoàn toàn lách biệt nhau. nhưng giữa chúng có những điểm chung cơ bản về điều kiện tự nhiên như sau:
Một là, các quốc gia này đều nằm trên lưu vực các con sông lớn như sông Ni le (Ai Cập), sông Tigris và sông Euphrates (Lưỡng Hà), sông Hằng và sông ấn (Ấn Độ), sông Hoàng Hà và sông Trường Giang (Trung Quốc).
Hai là, khí hậu nhiệt đới : mưa nhiều, độ ẩm cao.
Ba là, có địa hình phức tạp và khép kín.
Ai Cập ở Đông Bắc châu Phi, với địa hình hầu như biệt lập với thế giới bên ngoài bởi bốn phía biên giới của Ai Cập là biến, rừng rậm và sa mạc. Người Ai Cập cổ đại chi có thể qua lại vùng Tây Á bằng eo đất Xinai rất hẹp ở phía Đông Bắc.
An ĐỘ ở Nam A và được ví như một tiểu lực địa vì bị ngăn cách với phần còn lại bởi dãy núi Hymalaya cao nhất thế giới.
Trung Quốc ở phía Đông châu á, bị ngăn cách với phần còn lại bởi sa mạc Nội - Ngoại Mông.
Lưỡng Hà, trong bốn quốc gia, là có địa hình tương đối mở, nhưng cũng bao bọc nó là sa mạc và thảo nguyên mênh mông.
Những đặc điểm về điều kiện tự nhiên trên, trong thời kỳ cổ đại chúng có nhiều ảnh hưởng đến nền kinh tế - xã hội của các quốc " gia ở đây. Những ảnh hưởng này có tác động rất lớn đối với quá trình ra đời của nhà nước ở đây.
Một là, với những đồng bằng rộng lớn. không ngừng được bồi đắp phù sa màu mỡ bởi các con sông lớn, cùng với khí hậu nhiệt đới đã thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp tưới tiêu phát triển từ rất sớm.
Hai là, để sản xuất nông nghiệp trên diện rộng và tránh thiên tai, lũ !ụt do các con sông tạo ra nên việc xây dựng các công trình thủy lợi được chú trọng từ rất sớm, trở thành nhu cầu cơ bản trong đời sống xã hội của cư dân phương Đông cổ đại.
Ba là, địa hình khép kín phức tạp làm cho việc sinh sống ở các đồng bằng dọc theo các con sông lớn rất thuận lợi, còn ở những nơi khác là vô cùng khó khăn nêrt từ rất sớm cư dân sớm tập trung sinh sống ở các khu vực đồng bằng Hệ quả là từ việc tranh giành nguồn đất, nguồn nước để tồn tại và mở rộng thế lực nên từ rất sớm nhu cầu tổ chức chiến tranh đã hình thành và cũng trở thành nhu cầu cơ bản đối với dân cư phương Đông cổ đại.
1 1 2 Những thay đổi kinh tế - xã hội dẫn đến hình thành nhà nước
* Điều kiện kinh tế
Vào khoảng thiên niên kỷ thứ IV TCN, công cụ lao động bằng đồng xuất hiện. Hoạt động sản xuất với công cụ lao động bằng đồng đã sớm giúp cư dân phương Đông có cuộc sống định canh, định cư trên các đồng bằng phì nhiêu, màu mỡ. Từ đó, xã hội phương Đông bắt đầu có sự phân công lao động. Vì nền kinh tế chủ đạo ở phương đông là nông nghiệp nên sự công lao động không rõ ràng và tách bạch như ở phương Tây. Tuy nhiên, nó cũng đã làm cho năng suất lao động tăng và sản phẩm dư thừa ban đầu xuất hiện. Tư liệu sản xuất chủ yếu là ruộng đạt ở phương Đông tồn tại phổ biến dưới chế độ công hữu do hoạt động sản xuất nông nghiệp hầu nhu hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên (khí hậu, lịch trình của các con sông). Vì thế, chế độ tư hữu xuất hiện nhưng chậm chạp và chủ yếu là tư liệu sinh hoạt.
* Điều kiện xã hội .
Khi kinh tế phát triển các tiều gia đình trong đại gia đình thị tộc có xu hướng thoát ly khỏi công xã thị tộc để sinh sống riêng. LÚC này, quan hệ huyết thống không còn đủ sức để ràng buộc các cá nhân chung sống với nhau nên công xã thị tộc tan rã. Thay thế các công xã thị tộc là công xã láng giềng mà ở phương Đông đa phần là các công xã nông thôn - là đơn vị xã hội tồn tại lâu đời và có nhiều ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, xã hội, chính trị phương Đông.
Mặt khác, khi công xã thị tộc tan rã cũng là lúc chế độ tư hữu xuất hiện. Đó là quá trình mà thiểu số chức sắc trong xã hội nguyên thủy như: tộc trưởng. tù trưởng, thủ lĩnh liên minh bộ lạc chiếm được nhiều tài sản làm của cải riêng. HỌ dựa vào sức mạnh ưu thế của mình để cướp bóc, chiếm đoạt tài sản, ruộng đất của các thành viên trong bộ lạc của mình. Đồng thời, họ chỉ huy tiến hành chiến tranh cướp tài sản của các bộ lạc khác, biên dân cư của những bộ lạc chiến bại thành nô lệ nên họ càng ngày càng giàu có và họ trở thành quý tộc thị tộc. Còn đại đa số dân cư trở thành nông dân công xã giữ được một ít tài sản. Tuy nhiên, sự phân hóa giai cấp do tác động của điều kiện kinh tế nông nghiệp và chế độ công hữu về ruộng đất nên diễn ra chậm chạp và mâu thuẫn giai cấp chưa thật sâu sắc.
Theo học thuyết của Mác - Lênin về nguồn gốc nhà nước, khi mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên gay gắt, không thể tự điều hòa được thì giai cấp mạnh hơn sẽ thành lập một tồ chức để đàn áp sự đối kháng của các giai tầng khác, đồng thời quản lý xã hội theo một khuôn khổ nhất định, phù hợp với ý chí của họ để đảm bao duy trì sự thống trị về mặt giai cấp. Tổ chức đó gọi là nhà nước.
Trong khi đó, mặc dù, ở các quốc gia phương Đông cổ đại, mâu thuẫn giai cấp chưa đến mức gay gắt và sâu sắc, nhưng nhà nước vẫn xuất hiện và xuất hiện rất sớm. Nguyên nhân là chịu sự tác động và thúc đẩy của nhu cầu trị thủy, thủy lợi và chiến tranh.
Tóm lại, quá trình trên thể hiện nét đặc thù của phương Đông cổ đại Bởi vì, ngoài sự phân hóa giai cấp vận động theo quy luật chung, quá trình hình thành nhà nước ở vùng này còn bị ảnh hưởng bởi hoạt động trị thủy và chiến tranh. Tuy nhiên, hai yếu tố này đóng vai trò thúc đẩy nhanh tiến trình hình thành nhà nước, còn nguyên nhân chính dẫn đến sự xuất hiện nhà nước vẫn là sự phân hóa giai cấp.
1.2 Lịch sư hình thành, phát triển và suy vong
1.2.1 Ai Cập
Lịch sử cổ đại của Ai Cập trải qua 4 thời kỳ gồm: Tảo kỳ vương quốc, CỔ vương quốc, Trung vương quốc, Tân vương quốc. Về mặt thời gian là vào khoảng cuối thiên niên kỷ thứ IV TCN đến năm 225 TCN khi Ai Cập bị đế quốc Ba Tư thôn tính.
1.2.2 Lưỡng Hà
Lịch sử cỗ đại của Lưỡng Hà là quá trình thay thế thống trị giữa các tộc người 'Xu - me, người Xê - Mít, người Amôrít. . . Về thời gian, từ đầu thiên niên kỷ thứ I]I TCN khi ở Lưỡng Hà xuất hiện các quốc gia thành thị (Ua, Lagash. . . ) đến năm 53 8 Lưỡng Hà bị Ba~tư xâm chiếm. Trong đó thời gian từ thế kỷ XIX - XVIII TCN, thời kỳ Vương quốc cố Babylon là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất.
1.2.3 ấn độ
Đầu thiên niên kỷ 111 TCN đến giữa thiên niên kỷ thứ 11 TCN, ở Ấn Độ đã tồn tại nền văn minh Harappa và Môhenjo - Dao ở lưu vực sông án. Lịch sử cổ đại của Ấn Độ kéo dài từ đó cho đến thế kỷ IV SCN với sự xuất hiện của vương triều Gupta là bước ngoặc đánh dấu sự xuất hiện chế độ phong kiến ở án Độ. Trong đó, có hai vương triều thể hiện sự hưng thịnh và thống nhất của Ấn Độ cô đại là vương triều Magada (thế kỷ VI TCN) và vương triều Morya (cuối thế kỷ IV T~N).
1.2.4 Trung Quốc
Lịch sử cổ đại của Trụng Quốc trải qua 3 triều đại: Hạ, Thương, Chu. Triều Hạ, năm 2140 TCN, Khải là con của Hạ Vũ tuy không được cộng đồng bầu cử nhưng vẫn kế vị của cha, mở đầu cho chế độ cha truyền con nối, nhà nước đầu tiên của Trung Quốc xuất hiện. Năm 171 1 TCN, nhà Thương thay thế nhà Hạ. Vị vua cuối cùng của nhà Thương là Trụ Vương thực hiện chính sách cai trị tàn bạo nên bị nhà Chu lật đổ. Nhà Chu chia làm hai thời kỳ: Tây Chu (l066 - 770 TCN) và Đông Chu (769 - 256 TCN). Tây Chu là thời kỳ thịnh trị của nhà Chu, Đông Chu là giai đoạn suy yếu và lụi tàn. Thời kỳ Đông Chu gồm Xuân Thu và Chiến Quốc, là giai đoạn các chư hầu xưng bá, chiến tranh thôn tính lẫn nhau. Năm 256 TCN, nhà Chu bị nhà Tần lật đổ. Năm 221 TCN, nhà Tần thống nhất Trung Quốc, mơ đầu thời kỳ phong kiến của Trung Quốc.
2. Chế độ xã hội thương Đông cổ đại
Vấn đề này chủ yếu đề cập đến sự phân tầng trong xã hội phương Đông cổ đại và sự tương tác của các giai tầng đó. Nghiên cứu chế độ xã hội phương Đông cỗ đại với mục đích hiếu rõ hơn bản chất nhà nước và pháp luật của các quốc gia phương Đông cổ đại.
2. 1 Kết cấu giai cấp
Trong xã hội lúc này hình thành 3 giai tầng chính, đó là chủ nô, nô lệ và nông dân công xã.
* Giai cấp chủ nô
Gồm có: quý tộc thị tộc (vua, quan lại); quý tộc tăng lữ và những người giàu có khác. .Họ đồng thời là giai cấp thống trị trong xã hội, nắm giữ nhiều ruộng đất, của cải trong cả nước; đồng thời có nhiều quyền lợi chính trị.
* Giai cấp nô lệ
Nguồn chủ yếu của nô lệ gồm: tù binh chiến tranh, nông dân công xã bị phá sản và con của nô lệ.
NÔ lệ không có quyền lợi về kinh tế, chính trị, thậm chí bị xem là đồ vật hay công cụ lao động, thuộc quyền sở hữu của chủ nô (chủ nô có quyền bán, chuyển nhượng, trao tặng hay giết nô lệ của mình). Toàn bộ sản phẩm lao động do họ làm ra đều thuộc quyền sở hữu của chủ nô.
NÔ lệ trong xã hội phương Đông cổ đại mang nặng tính gia trưởng vì:
Một là, số lượng nô lệ không chiếm đa số trong xã hội;
Hai là, lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội không phải là nô lệ mà là nông dân công xã, nô lệ chủ yếu làm công việc hầu hạ, phục địch trong nhà chủ nô;
Ba là, máu thuẫn đối kháng giai cấp trong xã hội không phải là mâu thuẫn. giữa chủ nô và nô lệ mà lại là mâu thuẫn giữa chủ nô và nông dân công xã.
* Nông dân công xã
Nông dân chiếm đa số và là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội, sống trong các công xã nông thôn. Phần lớn họ là những người nghèo, ít ruộng đất phải nhận ruộng đất của nhà nước từ các công xã nông thôn để cày cấy và đóng thuế cho nhà nước hay thuê ruộng của các chủ nô và nộp tiền thuê đất hay hoa lợi thu hoạch được.
HỌ được quyền làm người nhưng là đối tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp chủ nô. Ngoài ra, họ còn phải cùng với nô lệ lao động khổ sai đề xây dựng các công trình cho nhà nước.
Bên cạnh đó, còn có tầng lớp thợ thủ công, thương nhân, chiếm thiều số trong dân cư. Thành phần của họ khá phức tạp nhưng nhìn chung họ là những người nghèo, chịu sự bóc lột của giai cấp chủ nô.
Như vậy trong xã hội phương Đông cổ đại kết cấu giai cấp đã hoàn chỉnh. Giai cấp thống trị bao gồm chủ nô như vua, quan lại, tăng lữ, người giàu có. Giai cấp bị trị bao gồm nô lệ, nông dân công xã, thợ thủ công và thương nhân.
2.2 Quan hệ giai cấp
Quan hệ giai cấp giữa giai cấp thống trị và toàn thể các giai tầng bị trị trong xã hội phương Đông cô đại là mâu thuẫn đối kháng. Cụ thể là mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô với nông dân công xã, nô lệ và thợ thủ công, thương nhân.
Đặc điểm của quan hệ giai cấp trong xã hội phương Đông cổ đại được thể hiện ở một số khía cạnh chủ yếu sau:
Trước hết, tuy nội bộ giai cấp thống trị đa dạng về thành phần (quý tộc thị tộc, quý tộc tăng lữ, những người giàu có khác) nhưng chúng thống nhất trước sự đấu tranh của nhân dân lao động. Nghĩa là nội bộ giai cấp thống trị không có sự cạnh tranh, đối kháng với nhau, mà là sự thống nhất chặt chẽ và hỗ trợ nhau để duy trì lợi ích thống trị về mặt giai cấp.
Thứ hai, mặc dù được xác định là chế độ chiếm hữu nô lệ nhưng với tính chất gia trưởng cho nên quan hệ giữa chủ nô và nô lệ không đóng vai trò là mâu thuẫn giai cấp chủ đạo trong xã hội phương Đông co đại.
Thứ ba, mâu thuẫn chủ đạo là mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nông dân công xã. Nguyên nhân xuất phát từ ngành kinh tế giữ vai trò chủ đạo là kinh tế nông nghiệp. Do vậy, lực lượng nông dân công xã chiếm số lượng áp đảo trong xã hội và là lực lượng sản xuất chính. Theo đó, giai cấp chủ nô muốn giàu có và duy trì địa vị thống trị trong xã hội không cách nào khác hơn là bóc lột trực tiếp nông dân công xã. Vì thế, mâu thuẫn giữa hai giai cấp này trở thành mâu thuẫn cơ bản trong xã hội phương Đông cổ đại.
2.3 Chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ cổ đại
Bên cạnh sự phân hóa xã hội thành giai cấp, xã hội phương Đông còn phân biệt dân cư theo đẳng cấp. Chế độ đẳng cấp ở Ấn ĐỘ là chế độ đẳng cấp điển hình ở phương Đông cổ đại và cả trong lịch sử thế giới cổ dại. Chế độ đẳng cấp ở Ấn ĐỘ cổ đại được hình thành từ Rig Veda. Về mặt thời gian, vào khoảng 1000 TCN, chế độ dẳng cấp này bắt đầu xuất hiện rõ nét, được gọi là chế độ Vacna, trong tiếng Phạn gọi là "màu sắc, thực chất".
Truyền thuyết cho rằng các đẳng cấp khác nhau trong xã hội hình thành từ các bộ phận trên cơ thề của thần Brahma vị thần tối cao, có 4 đẳng cấp:
* Đẳng cấp Bàlamôn
Gồm tăng lữ Bàlamôn còn gọi là Brahman, là đẳng cấp cao quý nhất, được sinh ra từ miệng thần Brhama, đọc kinh, giảng đạo, không phải lao động sản xuất ra của cải vật chất. Đẳng cấp này thâu tóm quyền lực về văn hóa và tôn giáo, một số tham gia vào công việc triều chính như làm cố vấn . . .
* Đẳng cấp Ksatria
Đẳng cấp Ksatria, theo Rig Veda, được sinh ra từ tay của thần Brahma. HỌ họp thành tập đoàn quý tộc quân sự - hành chính, nắm quân đội và chính quyền. Đó là vua, quan lại và binh sĩ
* Đẳng cấp Vaishya
Gồm những người làm nông nghiệp, buôn bán và thợ thủ công, sinh ra từ đùi của thần Brhama. HỌ có nghĩa vụ sản xuất để nuôi sống 2 đẳng cấp trên. HỌ thuộc tầng lớp bình dân, có một số giàu có lên. HỌ tuy không có những đặc quyền trong xã hội, phải nộp thuế, phục vụ lớp người bóc lột thuộc hai tầng lớp trên, song họ vẫn có thân phận tự do.
* Đẳng cấp Shudra
Là những người cùng khổ nhất trong xã hội, là con cháu của các bộ lạc bại trận, không có tư liệu sản xuất và ở ngoài công xã nhưng không phải là nô lệ, nô lệ không được xếp vào đẳng cấp. Đẳng cấp này được sinh ra từ bàn chân của thần Brahma. HỌ làm những công việc nặng nhọc nhất, nhưng không được pháp luật bảo hộ, không được tham gia vào các hoạt động tôn giáo. Nếu một Shudra nghe trộm tụng kinh thì sẽ bị đổ thiếc nung chảy vàn tai.
Sự phân biệt đẳng cấp ở Ấn Độ rất khắc nghiệt, kéo theo sự phân biệt đối xử sâu sắc trong xã hội .
Người ở đẳng cấp dưới có nghĩa vụ phải tôn kính người ở đẳng cấp trên. Kinh tôn giáo Bàlamôn từng ghi rõ: "Một người Bà lamôn dưới 10 tuổi cũng có thể được coi là cha của một kẻ ở đẳngcấp dưới, dù cho kẻ ấy đã 100 tuổi".
Kết hôn phải cùng đẳng cấp, người đàn ông ở đẳng cấp cao hơn có quyền lấy người phụ nữ ở đẳng cấp dưới làm vợ. Nếu người đàn ông ở đẳng cấp dưới dám lấy một phụ nữ ở đẳng cấp cao trên làm vợ thì con của họ được xếp vào hạng "tiện dân". Thân phận "tiện dân" vô cùng thê thảm, họ bị đặt ra ngoài vòng xã hội và không được tiếp xúc với con người.
Chế độ đẳng cấp Vacna ảnh hưởng sâu sắc đến tổ chức quản lý nhả nước và quy định pháp lý ở Ấn Độ cổ đại.
3. To chúc bộ máy nhà nước
3. 1 MÔ hình tổ chức bộ máy nhà nước
3. 1.1 Các cơ quan nhà nước ở trung ương
* Vua
Là người đứng đầu nhà nước; có quyền lực tối cao. Mọi mệnh lệnh của vua có giá trị thi hành như pháp luật. Vua có quyền quyết định mọi vấn đề quan trọng của quốc gia, quyết định bổ nhiệm, cách chức, trừng phạt bất cứ ai, có thẩm quyền xét xử cao nhất và là chỉ huy quân sự cao nhất. Bên cạnh đó, vua được thần thánh hóa, được xem là con hay thay mặt hay chính là hiện thân của thần linh.
* Quan đầu triều :
Là người thân tín nhất của nhà vua, nắm giữ các công việc quan trọng trong triều.
* Hệ thống các cơ quan giúp việc:
Gồm một số quan lại cao cấp. Tùy từng nơi, tìm thời kỳ mà có sự phân công nhiệm vụ. quyền hạn rõ ràng hay không.
3. 1. 2 Bộ máy nhà nước ở địa phương
Quản lý nhà nước ở địa phương thường dựa vào công xã nông thôn. Người có quyền quản lý là người của chính địa phương đó (vương công, tù trưởng. . . ). Quyền lực của họ như một vị vua ở địa phương, quyết định những van đề ở địa phương. Do đó, khi chính quyền trung ương suy yếu, họ là những thế lực phản loạn, nổi dậy chống lại chính quyền trung ương, thành lập nhà nước riêng, tạo nên trạng thái cát cứ phân quyền. Sau mỗi lần cát cứ như thế. chính quyền trung ương thực hiện nhiều biện pháp để quản lý chặt chẽ hơn địa phương.
3.2 Tổ chức bộ máy nhà nước ở từng quốc gia
3.2.1 Ai Cập
* Ở trung ương
- Vua:
Ở Ai Cập, vua được gọi là Pharaông, có quyền lực vô hạn.
Về kinh tế, Pharaông là chủ sở hữu tối cao đối với ruộng đất trong cả nước. Hầu như không phân biệt tài sản của nhà nước và tài sản của vua.
Về chính trị, Pharaông có quyền lực tuyệt đối, là người đứng đầu bộ máy nhà nước, nắm giữ và kiểm soát cả hệ thống quan lại ở trung ương và đỉa phương. Vua còn là người chỉ huy quân đội tối cao.
Về tư tưởng, Pharaông được thần thánh hỏa, được xem là "vị thần vĩ đại", "vị thần cao quý".
- Quan đầu triều:
Quan đầu triều ở Ai Cập gọi là Vidia (Vizir). Quyền lực của vidia chỉ sau Pharaông, thường là con của Pharaông. Vidia là người giúp vua cai quản bộ máy quan lại, nắm hầu hết những công việc quan trọng của nhà nước. Tuy nhiên, đôi khi Vidia nắm không hết các quyền hạn đó bởi vì còn có nhiều quan lại khác cũng thường là người trong hoàng tộc.
20. a. (Ulpimus I, 1, 2, D XXVI, lo): Cần chú ý rằng sự buộc tội (người bảo trợ về hành động thiếu lương tâm của người đó) là rút ra từ luật XIL bảng).
20. b. (Triphonianus * I, I, 1 55, D, XXVI, 7). Trong trường hợp người .bảo trợ biển thủ tài sản của người dưới quyền, thì phải xác định rằng có nên xừ phạt gấp đôi đối với mọi người bảo trợ, theo đã được quy định trong XII bảng không.
21. Người chủ nào mà làm hại đến người phụ thuộc [mình] thì đáng giao cho Diêm - vương ( nghĩa là đáng nguyền rủa).
22. Nếu [người nào tham gia [vào việc thực hiện hợp đồng] với tư cách là người làm chứng hay người cân lường, [rồi sau] lại từ chối làm chứng việc đó, thì [người đó bị coi] là không giữ danh dự và bị mất quyền làm chứng.
23. Anlius Heúius (Đêm Altích, XX, l,53): Theo luật XII bảng, kẻ bị phát hiện làm chứng giả mạo phải bị ném xuống vách núi Tacpê.
24a. (Plinicus (Lịch sử tự nhiên, XVIII, 3, 12, 8 - 9): Theo XII bảng. tội bí mật phá hoại mùa màng [bị xử] tử hình. . . . nặng hơn tội giết người).
25. Gaius (l.236, pí. D, L, 16): Nếu có người nào đó hỏi về chất độc thì cần thêm rằng người nào đó muốn được làm lợi hay làm hại đến sức khoẻ, vì thuốc cũng là chất độc).
26. (Porcicus, Lam po (Decl in Catiú, 19): như chúng ta đã biết, trong XII bảng ghi là không ai được tổ chức những cuộc tụ họp ban đêm ở thành phố).
27. (Gaius (I, 4, D, XL, VII, 22): Luật XII bảng cho phép các thành viên coúegin ~ [của xã hội] quyền kí kết với nhau một thoả ước, miễn là họ không phá hoại điều quy định của một số ai đó, có liên quan tới trật tự xã hội. Luật đó, dường như mượn ở luật pháp của Solon).
BẢNG IX
1 2: (Cicero (Về luật pháp, III 4, 11, 19, 44): Không ai được đòi hỏi đặc quyền [nghĩa là vì lợi ích của mình mà vi phạm pháp luật] Những án xử tử hình công dân La Mã không được duyệt ở đâu ngoài Comitia centunata.
Luật XII bảng nổi tiếng có 2 điểm, trong đó điểm thứ nhất nhằm loại trừ mọi sự vi phạm luật pháp đề mưu lợi cá nhân và điểm thứ hai nhằm cấm thông qua án tử hình đối với công dân Rôm ngoài Comitia centuriata).
3. (Aulius Heúius (Đêm áttích, XX, 17): "Phải chăng là khắc nghiệt, cái điều luật xử tử hình thẳm phán hay nhân chứng nào bị gọi ra trước tòa để xét xử một việc và đã phải thú nhận là đã nhận là đã nhận một khoản tiền thù lao về việc [đó]?".
4. (Pompeius (l, 2, 23, D, l,2), Questorr nào chứng kiến việc thi hành án tử hình gọi là các hình quan, trong luật XII bảng cũng nói cả tới những người này).
5. (Marcianus (l.3, D, XLVIII, 4): Luật XIL bảng ra lệnh xử tử hình kẻ nào xúi giục quân thù của nhân dân Rôm tấn công Nhà nước Rôm hay kè nào nộp một công dân La Mã cho kẻ thù).
6. (Salvianus (Về quyền của thần thánh, VIII, 5): những điều quy định của XIL bảng cấm sát hại một cách phi pháp một người, cho dù người đó là thế nào đi nữa).
BẢNG X
1 Tử thi không được chôn và thiêu ở trong thành phố.
2. Không ai được làm hơn điều đó. Củi dùng vào [việc hoả thiêu người chết] không được chẻ bằng rìu.
3. (Cicero (Về luật pháp, II, 23, 59): " Sau khi hạn chế chi phí [ về việc ma chay] là chỉ được dùng 3 mảnh vải liệm, một áo áo dài đỏ thẫm và 10 cái sáo, luật XIL bang cũng cấm than khóc (người chết)".
4. trong việc ma chay] đàn bà không được cào cấu má và không được than khóc người chết.
5. Không được thu thập xương của từ thi để sau đó đem mai táng, (Cicero (Về luật pháp, II, 23, 59): chỉ trường hợp chết ở trên chiến trường hay ở nước ngoài.
6a. (Cicero, về luật pháp. II, 23, 59: "Ngoài ra, luật pháp còn xác định [những nguyên tắc ] sau đây: bỏ việc xoa dầu thơm tắm rửa của nô lệ và uống bằng cốc tròn, không vẩy nước long trọng, không dùng dây hoa dài, không có lư hương
6 b. (Phestus (Da verb, sigmf 1 54): Luật XIL bảng quy định là không được đặt trước người chết đồ uống có pha dầu thơm).
7. (Nếu một người nào được tặng vòng hoa, hay là cho chính mình. hay cho ngựa hay nô lệ của mình [đã tham gia cuộc thi đấu], hay nếu vòng hoa tặng cho người đó vì lòng tốt của người đó, thì khi chết đi, cũng không cấm đặt vòng hoa ở nhà người chết cũng như ở Forum, đối với người thân thích của người đó cũng được phép đeo vòng hoa khi dự tang lễ
8. Cũng không được chôn vàng theo người chết. Nhưng nếu ở răng người chết có bịt vàng thì cũng không cấm chôn hay thiêu người chết cùng với vàng.
9. Cicero (Về luật pháp II, 24, 61) : "Luật ( XII bảng) cấm đặt hài cốt hay phần mọ người chết nhà cửa của.người khác dưới 60 chân nếu không được người đó đồng ý".
10 (Cicero ( Về luật pháp, li, 24, 6 1 ): Luật pháp cấm không được kiếm chỗ chôn cất theo tục cũ cũng như cả chỗ thiêu xác).
BẢNG XI
1. (Cicero (Về chế độ cộng hòa, II, 36…36) [Ủy ban – 10 người khóa hai] đã thêm hai bảng gồm những điều luật ưu tiên [trong đó] đã phê chuẩn điều luật vô nhân đạo nhất là cấm kết hôn giữa plebs và patriui
2. (Macrobius, Sat, I, 13, 21): Ủy ban – 10 người thêm hai bảng, đề nghị nhân dân chuẩn y sửa đổi lịch
BẢNG XII
1. (Gaius, Hiến pháp, IV, 28: Việc chiếm đoạt đồ vật nhằm mục đích thanh toán nợ nần cũng được ghi trong luật pháp và theo luật XII bảng thì điều đ1o cũng được xác định để xử người nào có súc vật dùng vào việc hiến lễ mà chưa trả tiền theo giá mua, và cũng xử cả người nào chưa trả tiền công thuê súc vật tải đồ, với lí dùng tiền công thuê để sửa một bữa tiệc hiến lễ)
2 a. Nếu nô lệ ăn trộm hay gây ra thiệt hại
2 b. (Gaius (Hiến pháp IV, 75, 76)” Những vụ phạm tội do người dưới quyền hay nô lệ gây ra mà đưa đến bị kiện cáo về sự thiệt hại, thì người chủ nhà hay người sở hữu nô lệ có trách nhiệm hay là đền bù giá tổn hại, hay đưa kẻ phạm tội ra tòa… những vụ kiện cáo [như thế] là do luật pháp hay sắc lệnh của pretor định ra. [Thuộc về] những vụ kiện do luật pháp định chẳng hạn như kiện cáo về trộm cắp là do luật XII bảng định ra)
3 (Festus, De verb, Sigrig. 174) Nếu mang (đến tòa) một vật giả mạo, hay chối cải lại [chính cái chứng cớ] của tỏa án thì pretor cử 3 người làm chứng và theo quyết định của những người này mà phải bồi thường thiệt hại gấp đôi giá [vật tranh chấp]
4 (Gaius, 3, D,XL, IV, 6: Luật XII bảng cấm đem cúng cho đền miếu vật nào đã bị đem xét xử ở tòa án, nếu cứ làm thế, sẽ phải nộp phạt gấp đôi giá vật, nhưng không hề nghe nói rõ rằng khoản tiền phạt đó phải nộp cho Nhà nước hay cho người đòi nhận vật đó
5 (Livius, VII, 17, 12: Trong luật XII bảng có khoản quy định rằng từ nay về sau, mọi quyết nghị của hội nghị nhân dân phải có hiệu lực như luật pháp
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: