Wolf

New Member

Download miễn phí Giáo trình Miễn dịch học thú y





Interferon (IFN) là một nhóm các polypeptide được sản xuất ra ởtế
bào khi bịnhiễm virus (IFN- alpha và IFN-beta) hay từlympho bào T khi
tiếp nhận kháng nguyên đặc hiệu (IFN-gamma). Các IFN có nhiều hoạt tính
sinh học nhưlàm cản trởsựxâm nhập và nhân lên của virus, kìm hãm sự
tăng sinh của một sốtếbào u, có khảnăng hoạt hóa các đơn nhân thực bào,
các tếbào NK (natural killer) và làm tăng biểu lộkháng nguyên hòa hợp mô
vv.(Các hoạt tính này không có tính đặc hiệu vềkháng nguyên hay tác nhân
gây bệnh.)



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

1
Chương 1
KHÁI NIỆM VỀ ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH
I. Đại cương
Sinh vật sống trong môi trường và buộc phải trao đổi tích cực với môi
trường đó để tồn tại, phát triển và sinh sản. Sự trao đổi này là cần thiết song
chính nó cũng thường xuyên mang lại cho sinh vật các nguy cơ đe dọa đến
sự sống còn. Để thoát được các nguy cơ này, trong quá trình tiến hóa của
sinh vật đã hình thành và hoàn thiện dần một hệ thống để bảo vệ cho mình,
đó chính là hệ thống miễn dịch.
Miễn dịch là khả năng của cơ thể nhận ra và loại bỏ các vật lạ.
Đáp ứng miễn dịch bao gồm miễn dịch đặc hiệu và miễn dịch không
đặc hiệu. Sự phân chia này hoàn toàn không có nghĩa là 2 loại đáp ứng miễn
dịch này tách biệt với nhau, mặc dù chúng có nhiều điểm khác nhau. Để
thực hiện chức năng bảo vệ cơ thể, hai loại đáp ứng miễn dịch bổ túc cho
nhau, lồng ghép vào nhau, khuyếch đại và điều hòa hiệu quả của chúng.
Trong lịch sử tiến hóa của hệ miễn dịch, các đáp ứng miễn dich không
đặc hiệu được hình thành rất sớm và phát triển, đến lớp động vật có xương
sống thì các đáp ứng miễn dịch đặc hiệu tự nhiên và thu được mới được hình
thành.
II. Miễn dịch không đặc hiệu (nonspecific immunity) còn có các tên gọi
khác như miễn dịch tự nhiên (natural immunity) hay miễn dịch bẩm sinh
(innate immunity).
1. Khái niệm
Miễn dịch không đặc hiệu hay miễn dịch tự nhiên là khả năng tự bảo
vệ sẵn có và mang tính di truyền. Đó là khả năng tự bảo vệ của một cá thể có
ngay từ lúc mới sinh, không đòi hỏi phải có sự tiếp xúc trước của cơ thể với
các vật lạ (kháng nguyên), tức là không cần có giai đoạn mẫn cảm.
Miễn dịch tự nhiên phát huy tác dụng khi kháng nguyên xâm nhập từ lần
đầu và cả các lần sau nhưng nó có vai trò đặc biệt quan trọng ở lần đầu tiên,
vì lúc này đáp ứng miễn dịch thu được chưa phát huy tác dụng. Trong nhiều
trường hợp miễn dịch tự nhiên là giai đoạn mở đầu cho miễn dịch thu được.
2. Các hàng rào của đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu
2.1. Hàng rào vật lý (Cơ chế cơ học)
Da và niêm mạc có tác dụng ngăn cách nội môi của cơ thể với ngoại
môi xung quanh.
2
Da lành lặn, không bị xây xát sẽ cản trở sự xâm nhập của kháng
nguyên. Da gồm rất nhiều lớp tế bào, trong đó có lớp tế bào ngoài cùng đã
sừng hóa, luôn được bong ra và đổi mới có tác dụng cản trở sự xâm nhập
của kháng nguyên.
Niêm mạc tuy chỉ có một lớp tế bào nhưng cũng có tác dụng cản trở
tốt, vì ngoài tính đàn hồi như da nó còn bao phủ bởi lớp chất nhầy do những
tuyến dưới niêm mạc tiết ra. Lớp chất nhầy này tạo nên một màng bảo vệ
làm cho vi khuẩn và các vật lạ không thể bám thẳng được vào tế bào, mà sự
bám này là điều kiện tiên quyết để chúng có thể xâm nhập vào sâu hơn.
Một số niêm mạc (mắt, miệng, đường tiết niệu) thường xuyên được
rửa sạch bằng các dịch tiết (nước mắt, nước bọt, nước tiểu). Một số niêm
mạc khác, đặc biệt là niêm mạc ở đường hô hấp lại có các vi nhung mao
luôn rung động, có tác dụng cản bụi mang theo vi khuẩn và các vật lạ, không
cho chúng di chuyển vào phế nang và đẩy dần chúng ra khỏi phế quản cùng
phản xạ ho và hắt hơi. Sự lưu thông và nhu động của đường tiêu hóa, đường
tiết niệu và đường mật vv.. đều có tác dụng hạn chế sự nhiễm khuẩn. Tổn
thương bề mặt da, tắc khí-phế quản, tắc đường tiểu, đường mật, tắc ruột đều
dẫn đến tình trạng nhiễm khuẩn. Cần chú ý là niêm mạc với diện tích gấp
200 lần diện tích da, lại là chỗ hay có tiếp xúc với nhiều vật lạ nhất (ăn, uống,
thở) nên đã hình thành một tổ chức chống đỡ rất hiệu quả, hiện nay đang
được quan tâm nghiên cứu.
2.2. Hàng rào hóa học
Trong các dịch tiết tự nhiên có chứa các hóa chất có tác dụng diệt
khuẩn không đặc hiệu.
Trên da, nhờ có các chất tiết tạo độ toan như acid lactic, acid béo của
mồ hôi và tuyến mỡ dưới da làm các vi khuẩn không tồn tại lâu được. Tuy
nhiên có 1 số trường hợp ngoại lệ cần chú ý: Như tụ cầu khuẩn lại có thể
chống lại được tác dụng của các acid béo. Tularemia, brucella hay
schistosoma có thể dễ dàng vượt qua được da để xâm nhập vào bên trong cơ
thể mà gây bệnh.
Tại niêm mạc, chất nhầy che chở bề mặt tế bào khỏi bị enzyme của
virus tác động. Dịch tiết của các tuyến như: nước mắt, nước bọt, nước mũi,
sữa.. có chứa nhiều lysozym, một loại enzym muramidase có tác dụng phá
hoại vỏ của một số vi khuẩn. Chất BPI (Bacterial Permeability Increasing
Protein- Protein làm tăng tính thấm của vi khuẩn) có thể liên kết với vách
LPS của vi khuẩn rồi chọc thủng màng của chúng, phong bế các enzyme vi
khuẩn làm chúng mất khả năng hoạt động. Ngoài ra, cũng có những chất
của huyết thanh chuyển từ lòng mao mạch và gian bào ra niêm mạc như bổ
thể, interferon cũng tham gia vào sự chống đỡ hóa học.
3
Trong các dịch sinh học (huyết thanh, dịch bạch huyết, dịch gian bào)
có các chất tiết của nhiều loại tế bào khác nhau, những sản phẩm chuyển
hóa của nhiều cơ quan. Huyết thanh có chứa lysozym (hàm lượng thấp),
protein phản ứng C, các thành phần của bổ thể, interferon..
* Lysozym: Là một enzyme có khả năng cắt cầu nối giữa phân tử
N-acetyl glucosamin và N-acetyl muramin có trong cấu tạo của màng vi
khuẩn. Chính nhờ hoạt tính trên mà lysozym có thể làm ly giải được một số
vi khuẩn gram dương. Các vi khuẩn gram âm nhờ có vỏ bọc ngoài là
peptidoglycan nên không bị ly giải trực tiếp. Tuy nhiên khi vỏ ngoài bị
thủng do tác dụng của bổ thể thì lysozym sẽ hiệp lực tấn công màng vi
khuẩn.
* Protein phản ứng C (CRP): CRP là một protein thuộc nhóm protein
của pha cấp, bình thường có mặt trong huyết thanh ở mức độ thấp, có trọng
lượng 105 đến 140 KDa và do tế bào gan sản xuất ra. Khi có tình trạng viêm
CRP được nhanh chóng sản xuất (sau 6h) làm cho nồng độ trong huyết
thanh tăng cao. CRP có thể liên kết với các gốc phosphoryl choline,
phosphatidyl choline, các polyamin mucopolysaccharide có trên bề mặt
nhiều loại vi khuẩn (Ví dụ: phế cầu trùng) qua đó hoạt hóa bổ thể theo con
đường cổ điển làm cho vi khuẩn bị ly giải và/ hay bị thực bào dễ dàng hơn
(cơ chế opsonin hóa).
* Interferon (IFN) là một nhóm các polypeptide được sản xuất ra ở tế
bào khi bị nhiễm virus (IFN- alpha và IFN-beta) hay từ lympho bào T khi
tiếp nhận kháng nguyên đặc hiệu (IFN-gamma). Các IFN có nhiều hoạt tính
sinh học như làm cản trở sự xâm nhập và nhân lên của virus, kìm hãm sự
tăng sinh của một số tế bào u, có khả năng hoạt hóa các đơn nhân thực bào,
các tế bào NK (natural killer) và làm tăng biểu lộ kháng nguyên hòa hợp mô
vv..(Các hoạt tính này không có tính đặc hiệu về kháng nguyên hay tác nhân
gây bệnh.)
* Bổ thể: Hệ thống bổ thể bao gồm gần 30 thành phần có mặt bình
thường trong huyết tương ở dạng tiền hoạt động. Khi được hoạt hóa, chúng
trở nên hoạt động theo các chuỗi dây chuyền của các enzyme làm nhanh
chóng khuyếch đại phản ứng và tạo ra rất nhiều hoạt tính sinh học đặc biệt
...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top