Bryant

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Hành động cầu khiến nói riêng và hành động ngôn từ (speech acts) nói
chung là những vấn đề thuộc về ngữ dụng học, một phân ngành của ngôn ngữ
học phát triển khá mạnh mẽ từ những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây.
Ngữ pháp truyền thống đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến câu
cầu khiến nhưng chủ yếu xoay quanh vấn đề “phân loại câu theo mục đích phát
ngôn”. Về vấn đề này, trong hơn ba thập niên qua, lý thuyết về hành động
ngôn từ của J.L. Austin, H.P. Grice, J.R.Searle đã xác định những cách tiếp cận
mới sâu sắc và toàn diện hơn. Lý thuyết này cho rằng ngôn ngữ có chức năng
quan trọng trong hoạt động giao tiếp, nhưng đơn vị giao tiếp cơ bản không phải
là câu hay một hình thức ngôn ngữ nào đó mà là một phát ngôn nhằm thực hiện
một hành động nhất định. Cầu khiến là một trong những hành động ngôn từ
được người nói thực hiện để yêu cầu điều khiển người nghe hành động theo chủ
ý của mình. Đây là một vấn đề thuộc về dụng pháp nên nó thể hiện đặc trưng
văn hoá của từng địa phương, có mối liên hệ mật thiết với tính lịch sự trong
giao tiếp. Tùy theo hoàn cảnh phát ngôn, đối tượng tiếp nhận mà người nói thực
hiện những cách khác nhau: trực tiếp hay gián tiếp. Do vậy, chúng tôi
nhận thấy hành động cầu khiến trong tiếng Việt là một vấn đề lý thú và bổ ích.
Để tiện cho việc miêu tả, phân loại, chúng tui tiếp thu quan điểm của
những người đi trước. Cụ thể là, chúng tui dựa theo quan điểm của ngữ pháp
học truyền thống về việc phân loại câu theo mục đích phát ngôn. Đó là việc
xác định được mục đích giao tiếp của từng kiểu câu và những dấu hiệu hìnhHành động cầu khiến trong tiếng Việt
Trang 3
thức điển hình tương ứng để khảo sát đặc điểm ngữ nghĩa ngữ dụng (các hành
động tại lời) của các phát ngôn. Từ đó, chúng tui xác định cách thể hiện
phù hợp với hành động cầu khiến trong tiếng Việt. Hướng đi của chúng tui là
tập hợp các phát ngôn có hiệu lực tại lời cầu khiến xuất hiện chủ yếu trong
phong cách sinh hoạt hàng ngày, phong cách văn chương nghệ thuật, phong
cách chính luận để khảo sát, khái quát hoá đặc trưng về hình thức cấu tạo và
nội dung ý nghĩa của từng cách.
Về mặt lý luận, luận văn hy vọng góp phần làm rõ thêm về khái niệm
hành động cầu khiến, phân loại các hành động cầu khiến, miêu tả một số tình
thái cầu khiến lịch sự, những vấn đề mà xưa nay đã đề cập đến nhưng chưa
được quan tâm đúng mức và chưa được lý giải đầy đủ.
Về mặt thực tiễn, việc miêu tả các cách thể hiện hành động cầu
khiến trong tiếng Việt có thể đóng góp thêm cho việc miêu tả, phân tích và lý
giải cụ thể, thiết thực cho vấn đề dạy và học tiếng Việt.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong ngữ pháp truyền thống ở châu Âu, vấn đề nghĩa cầu khiến hay
mệnh lệnh thường gắn với phạm trù ngữ pháp thức (mood), một phạm trù đặc
trưng của động từ trong các ngôn ngữ biến hình: Khái niệm thức được các nhà
nghiên cứu ngữ pháp giải thích bằng phạm trù biểu thị quan hệ giữa hành động
với thực tế khách quan và với người nói. Những thức thường gặp trong các ngôn
ngữ là thức tường thuật, thức mệnh lệnh, thức giả định, thức điều kiện. Trong đó
thức mệnh lệnh (imperative mood) biểu thị nguyện vọng, yêu cầu của người nói
đối với việc thực hiện hành động được nêu lên trong câu.
Trong lịch sử nghiên cứu tiếng Việt, vấn đề câu cầu khiến đã được bàn
luận khá nhiều. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn sự thiếu thống nhất trong quan
điểm của một số nhà ngôn ngữ học thuộc các khuynh hướng khác nhau. Đó là
quan điểm của ngữ pháp học truyền thống và quan điểm của ngữ dụng học.
* Quan điểm của ngữ pháp học truyền thống
Tiếng Việt là loại ngôn ngữ không biến hình từ cho nên trong hầu hết các
công trình nghiên cứu tiếng Việt, các nhà Việt ngữ học thường không tuyệt đối
hóa về mặt hình thức mà chú ý đến cả hai mặt hình thức lẫn nội dung, thậm chí
một số nhà nghiên cứu còn coi mặt nội dung (ý nghĩa của câu) quan trọng hơn
mặt hình thức. Mối quan hệ giữa hình thức và nội dung không phải trong trường
hợp nào cũng đồng nhất. Tuy nhiên, trong bất cứ ngôn ngữ nào cũng có hiện
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiHành động cầu khiến trong tiếng Việt
Trang 4
tượng từ một hình thức câu nào đó có giá trị biểu đạt tương ứng với một mục
đích phát ngôn. Và ngược lại một mục đích phát ngôn có thể được thực hiện
thông qua những hình thức câu khác nhau. Có khi dùng hình thức câu này để
biểu hiện mục đích phát ngôn thường được biểu hiện của hình thức câu khác.
Thế nhưng, khi phân loại các kiểu câu “theo mục đích phát ngôn”, ngữ pháp
nhà trường chỉ phân thành bốn kiểu câu câu trần thuật, câu cầu khiến, câu cảm
thán và câu nghi vấn và giải thích khái niệm của các loại câu này bằng cách
nêu “mục đích phát ngôn” của câu gắn với những phương tiện ngôn ngữ điển
hình cấu tạo nên. Tuy việc sử dụng thuật ngữ có khác nhau như “Câu phân loại
theo mục đích phát ngôn”, “Câu phân loại theo mục đích nói năng”, “Phân loại
câu theo mục đích”, “Phân loại câu theo mục đích nói”,…hay cũng có tác giả
không sử dụng những thuật ngữ này như Lê Văn Lý (1977), Bùi Đức Tịnh
(1995)…nhưng quan điểm của hai ông thì phù hợp với khuynh hướng vừa nêu
trên.
Trước hết là quan điểm của Trần Trọng Kim (1940) trong Việt Nam văn
phạm. Qua khảo sát, tác giả nhận thấy có bốn loại câu: câu xác định, câu phủ
định, câu nghi vấn, câu hoài nghi. Nhưng sự tách bạch hai loại câu nghi vấn với
câu hoài nghi có phần chưa thoả đáng (có thể coi câu hoài nghi thể hiện ý nghĩa
tình thái của câu nghi vấn - hỏi nhưng dường như đã biết ít/ nhiều chỉ “hoài
nghi” chứ chưa hẳn không biết hoàn toàn). Mặt khác trong định nghĩa về câu
phủ định tác giả nêu: câu phủ định là câu có dùng tới phủ định trạng từ (trạng từ
là tiếng dùng phụ thêm nghĩa cho một tiếng động từ; một tiếng tính từ, một
tiếng trạng từ khác hay cả một mệnh đề) như không, chưa, chẳng, chớ,…Các từ
này thường đặt trước động từ. Và tác giả đưa ra thí dụ minh hoạ:
Anh đừng đùa cợt.
Tác giả cho rằng đừng là phủ định trạng từ, đặt trước động từ, có tác dụng
nhận diện loại câu.
Nguyễn Kim Thản (1977) trong Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt cũng chú
ý phân biệt loại câu nghi vấn chân chính với các loại câu nghi vấn khác như câu
nghi vấn tu từ học, câu nghi vấn khẳng định, câu nghi vấn phủ định, câu nghi vấn
cầu khiến. Đồng thời tác giả còn nhận diện động từ khi mang ý nghĩa ngữ pháp
mệnh lệnh thì biểu thị ý chí, tức lời yêu cầu đề nghị hay mệnh lệnh của người
nói (người viết) đối với người nghe (người đọc), đòi hỏi người này phải thực
hiện quá trình do động từ biểu thị.Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
Trang 5
Lê Văn Lý (1968) trong Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam khảo sát câu tiếng
Việt và phân làm 13 loại câu: câu danh từ, câu động từ, câu khẳng định, câu
phủ định, câu nghi vấn, câu khuyến lịnh, câu biểu cảm, câu tự loại, câu đơn
giản, câu đặt cạnh nhau, câu liên kết, câu phụ thuộc, câu phức tạp. Trong đó,
câu khuyến lịnh được tác giả quan niệm rằng người nói dùng câu câu khuyến
lịnh để bộc lộ ý muốn của mình. Việt ngữ có nhiều phương tiện để làm thành
khuyến lịnh, ta có thể xếp các phương tiện đó vào ba mục sau đây: giọng điệu,
thành tự và trạng tự (thành tự và trạng tự được tác giả gọi là ngữ vị). Đó là các
tiếng như đi, hãy, hẵng, đừng, chớ,…
Hoàng Trọng Phiến (1980) trong công trình nghiên cứu Ngữ pháp tiếng
Việt đã khẳng định:
– Phân chia câu theo mục đích phát ngôn giúp cho người đọc nhận diện
được ý nghĩa của câu và một mặt khác nữa là để xác nhận giá trị của các mô
hình cấu trúc câu.
– Phân chia câu theo mục đích phát ngôn cho phép lý giải thoả đáng các
mô hình cấu trúc các loại câu: câu kể, câu hỏi, câu cầu khiến
– Phân chia theo mục đích phát ngôn là mô tả ngữ nghĩa, cú pháp của
câu.
– Phân chia câu theo mục đích phát ngôn có liên quan đến việc phân chia
theo thực tại hoá(có quy định bởi bối cảnh và văn cảnh).Đây là một lý thuyết
mới do nhà trường Tiệp Khắc Mathesius đề xướng. Sự phân chia này gắn liền
với trật tự phân bố các yếu tố của câu.
-Phân chia theo mục đích phát ngôn là phân chia theo ngữ pháp-thông
báo. Ngữ điệu, ý chí, nguyện vọng cùng với sự kích thích của chủ thể làm thành
những thông số cần yếu cho việc chia câu.
Tác giả xác định các loại câu: câu kể, câu cầu khiến, câu hỏi và câu than
gọi. Tác giả cho rằng câu cầu khiến không có những dấu hiệu ngữ pháp đặc biệt
gì, ngoài một số phương tiện như hư từ và ngữ điệu. Câu cầu khiến có nhu cầu
của ý chí làm thành yếu tố thường trực của câu. Nó nêu lên ý muốn của chủ thể
phát ngôn và yêu cầu người nghe đáp lại bằng hành động. Câu cầu khiến gắn
liền với ý nghĩa hành động. Nội hàm của khái niệm cầu khiến bao gồm sự mời
mọc, yêu cầu, mệnh lệnh, cấm đoán và chúc tụng. Câu cầu khiến cũng có khẳng
định và phủ định.Hai dạng câu này có một số từ chuyên dùng để thể hiện.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiHành động cầu khiến trong tiếng Việt
Trang 6
Tác giả Diệp Quang Ban (2002) trong Ngữ pháp tiếng Việt, tập 2, Câu
phân loại theo mục đích nói đã phân thành câu tường thuật, câu nghi vấn, câu
mệnh lệnh, câu cảm thán. Quan niệm của tác giả về câu mệnh lệnh (còn gọi là
câu cầu khiến) là dùng để bày tỏ ý muốn nhờ hay bắt buộc người nghe thực hiện
điều được nêu lên trong câu và có những dấu hiệu hình thức nhất định. Tác giả
lưu ý khi khảo sát câu mệnh lệnh thì ta cần xét xem đó là câu mệnh lệnh đích
thực hay câu mệnh lệnh lâm thời.
Câu mệnh lệnh đích thực của tiếng Việt có cấu tạo nhờ những phụ từ tạo
ý mệnh lệnh, ngữ điệu mệnh lệnh hay đảm bảo điều kiện là chỉ chứa những từ
(phụ từ, vị từ) liên quan đến nội dung của lệnh.
Câu mệnh lệnh lâm thời là những câu không phải là câu mệnh lệnh đích
thực nhưng mang nội dung mệnh lệnh. Muốn xác định được nội dung này, ta
cần lưu ý đến những dấu hiệu hình thức như ngữ điệu, phụ từ (dùng đi kèm),
hay một tình huống nói năng.
Như vậy vấn đề về “phân loại câu theo mục đích phát ngôn” đã gặp một
số rắc rối giữa lý thuyết và thực tiễn bởi những lý do sau đây:
Theo lý thuyết về hành động ngôn từ của J. L. Austin (1962) có tới hàng
trăm mục đích phát ngôn; không phải trong trường hợp nào kiểu câu cũng phù
hợp với mục đích phát ngôn; và muốn xác định được nhiều mục đích phát ngôn
trong nhiều trường hợp đó thì phải dựa vào ngữ cảnh; cần thiên về việc tìm ra
các dấu hiệu hình thức để phân loại câu. Tuy nhiên, các nhà ngôn ngữ học
truyền thống như tác giả Diệp Quang Ban khi “phân loại câu theo mục đích
phát ngôn” cũng nhận thấy rằng chưa đặt câu vào đời sống hiện thực của nó đối
với những câu lân cận hay tình huống nói. Sự phân loại câu có liên quan đến
vấn đề dấu hiệu hình thức. Và theo tác giả, phân loại câu theo mục đích nói là
cách phân loại theo công dụng, ngữ pháp. Khi xem xét câu theo mục đích nói, ta
nhận diện được câu đó là câu đích thực, câu giả hay câu lâm thời. Cuối cùng
tác giả đưa ra kết luận: Quan điểm vấn đề về phân loại câu dựa theo công dụng
và ngữ pháp mới chỉ thể hiện là những nhận định mang tính chất khái quát,
không áp dụng được trên thực tế, vì không thể vận dụng nhất quán để phân loại
một cách hệ thống các kiểu câu khi gặp những câu mà giữa hình thức và công
dụng của nó không có sự thống nhất.
* Quan điểm ngữ dụng học
Ở Việt Nam, ngược lại với quan điểm của ngữ pháp học truyền thống,
một số nhà ngôn ngữ học tiêu biểu là Nguyễn Thiện Giáp (1999), (2000), ĐỗHành động cầu khiến trong tiếng Việt
Trang 7
Hữu Châu (1993), Nguyễn Đức Dân (2000), Hồ Lê (1989), Cao Xuân Hạo
(1991) tuyệt nhiên không nói đến phân loại câu theo mục đích phát ngôn mà chỉ
khảo sát các hành động tại lời (hành động ngôn trung) trong các phát ngôn. Một
số tác giả chẳng hạn như Cao Xuân Hạo (1991)…tiến hành phân loại cấu trúc
theo hành động ngôn trung và nhấn mạnh quan điểm cho rằng căn cứ vào hình
thức của câu để phân loại câu còn mục đích của phát ngôn (công dụng) thì chỉ
được xét đến sau khi các kiểu câu đã được xác định.
Trong Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam (1963), hai tác giả Trương Văn
Chình và Nguyễn Hiến Lê có khuynh hướng dung hòa hai khuynh hướng cổ
truyền và miêu tả tác dụng. Hai tác giả phân loại câu và phân cú theo hai
phương diện: theo cách cấu tạo thì phân thành câu đơn, câu phức…, theo ngữ
điệu thì phân biệt câu nói theo giọng thường, giọng hỏi và giọng biểu cảm. Hai
tác giả cho rằng ngữ điệu theo giọng mình nói có thể phân biệt ra giọng thường
hỏi và giọng biểu cảm. Hai tác giả đưa ra ví dụ để minh chứng cho điều này như
Làm việc này cho tui ngay. Câu này có thể nhã nhặn nói theo giọng thường hay
cất cao giọng nói (biểu cảm). Như vậy, hai tác giả không phân loại câu theo
mục đích phát ngôn như ngữ pháp truyền thống mà đi vào phân loại câu theo
ngữ điệu. Rõ ràng ngay từ buổi sơ khai, trong việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng
Việt, các nhà ngôn ngữ học đã đi từ cấu trúc về mặt (hình thức) để miêu tả và
phân loại câu. Có thể coi đóng góp của hai tác giả tuy còn khiêm nhường nhưng
đã tạo tiền đề, góp phần thể hiện sự đa dạng, phong phú của ngôn ngữ trong
hoạt động giao tiếp.
Hồ Lê (1992) trong cuốn Cú pháp tiếng Việt quyển 2 cho rằng mỗi câu
phát ra đều phải theo bốn định hướng: trần thuật, nghi vấn, cầu khiến, cảm thán.
Người thụ ngôn phải cảm nhận cho được định hướng của từng câu để có phản
xạ thích hợp. Đối với câu cầu khiến, anh ta không những phải hiểu được nội
dung ấy mà còn phải nhận ra điểm cầu khiến trong câu (thường được diễn đạt
hiển ngôn nhưng cũng có khi ẩn mặc) và chuẩn bị hành động phản ứng. Các
sách ngữ pháp trước đây đều quan niệm bốn loại câu trên là kết quả của sự
phân loại câu theo mục đích nói năng. Ông cho rằng mục đích nói năng không
thể nào là một phạm trù rõ và được xác định bằng quan hệ ngữ nghĩa – cú pháp
cả.
- Mục đích ngôn ngữ là ý định sâu kín của người phát ngôn, là phạm trù
thuần tuý chủ quan, nó cần đo lường bằng những phương tiện ngữ nghĩa cú
pháp. Do đóù, cần trả bốn loại câu này về đúng vị trí của nó bởi nó ra đời
do sự đối lập của bốn kiểu định hướng phát ngôn, mà định hướng phát ngôn lại
là một biểu hiện tình thái bắt buộc, phải hiện diện trong mỗi câu.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiHành động cầu khiến trong tiếng Việt
Trang 8
- Tác giả căn cứ vào đặc điểm ngữ nghĩa – cú pháp phân câu cầu khiến
ra làm bốn kiểu.
+ Câu mệnh lệnh
Xét về mặt ngữ nghĩa, nó buộc người khác phải thực hiện điều nó nói ra.
Còn về mặt cú pháp, câu thường do động từ hay từ tổ động từ đảm nhiệm, chủ
ngữ trong câu thường bị tỉnh lược, câu rất ít sử dụng trợ từ mà nếu dùng thì trợ
từ thích hợp là “đi” đặt ở cuối câu, ngữ điệu thường được xướng cao và mạnh.
VD : Bên trái quay!.
+ Câu yêu cầu
Về ngữ nghĩa, nó đòi hỏi làm hay không làm một điều gì đó. Về mặt cú
pháp, câu thường có kết cấu đề – thuyết, và thường sử dụng những từ tình thái
như: hãy, đừng, chớ, đi nào…
VD : Ông hãy đi khỏi đây.
+ Câu khuyên răn.
Về mặt ngữ nghĩa, nó bảo ban người khác về một điều gì đó. Về mặt cú
pháp, câu thường có kết cấu đề – thuyết và thường dùng những động từ tâm lý
như: cần/ cần, phải, nên,…
VD : Chị không nên liều mình như thế.
+ Câu dặn dò
Về ngữ nghĩa, nó nhắc nhở người khác một điều gì đó. Về cú pháp, câu
thường có kết cấu đề- thuyết và thường dùng động từ “nhớ”, phụ từ “hả” và
những trợ từ “nhé”, “nghe”, “nghen”.
Qua Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, Cao Xuân Hạo (1991) đã
bày tỏ quan điểm khi nói ra một câu, ta thực hiện một hành động nhận định,
nghĩa là xác lập một mệnh đề, nhưng đồng thời cũng thực hiện một hành động có
mục tiêu giao tế nào đấy. Đó là một hành động ngôn trung. Và tác giả cho rằng
sự phân biệt về hình thức để phân loại là một việc làm chính đáng… sự phân loại
“theo mục đích nói là hoàn toàn không đúng với thực tế sử dụng của ngôn ngữ.
Tuy nhiên, trên cơ sở tiếp thu cách phân loại cũ về căn bản và đặc biệt là căn
cứ vào hình thức ngữ pháp (thuộc tính về cấu trúc cú pháp) của câu tiếng Việt,
tác giả chia câu ra làm hai loại lớn: câu trần thuật và câu nghi vấn. Còn câu cầuHành động cầu khiến trong tiếng Việt
Trang 9
khiến được xếp vào một tiểu loại của câu trần thuật khác các tiểu loại khác về
tình thái. Căn cứ vào giá trị ngôn trung, câu hỏi gần với câu mệnh lệnh nhiều
hơn: cả hai câu đều nhằm yêu cầu người đối thoại làm việc gì, chẳng qua trong
câu hỏi là cung cấp một thông tin, một tri thức, còn trong câu mệnh lệnh thì việc
đó là một hành động bất kỳ. Tác giả cũng dựa trên việc phân loại giá trị ngôn
trung của J.L. Austin, J.R. Searle… và khẳng định thêm rằng phần lớn giá trị
ngôn trung này lệ thuộc quá nhiều vào ngôn cảnh.
Như vậy việc “phân loại câu theo lực ngôn trung” của tác giả Cao Xuân
Hạo cũng dựa vào mặt hình thức chứ không phải chỉ dựa vào công dụng .
Cũng theo quan điểm này, tác giả Bùi Mạnh Hùng với bài “Bàn về vấn
đề phân loại câu theo mục đích phát ngôn” đăng trên tạp chí Ngôn ngữ số 2
(2003) cho rằng trong cấu trúc của câu bao giờ cũng có phương tiện ngôn ngữ
giúp ta quy câu về một kiểu nhất định gắn với một mục đích phát ngôn (lực ngôn
trung) điển hình. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc của ngôn ngữ học. Tác
giả thay cho thuật ngữ “phân loại câu theo mục đích phát ngôn” của ngữ pháp
truyền thống “phân loại câu theo lực ngôn trung” của Cao Xuân Hạo là “phân
loại câu theo dấu hiệu hình thức gắn với mục đích phát ngôn điển hình”. Khi xác
định kiểu câu tác giả dựa trên ba nguyên tắc.
1. Không xét một câu nào đó vào hai kiểu câu khác nhau.
2. Mỗi một kiểu câu có một hình thức riêng mà kiểu câu khác không có
(hình thức riêng có thể biểu hiện chỉ qua một phương tiện ngôn ngữ mà cũng có
thể biểu hiện qua những phương tiện ngôn ngữ cùng một lúc)
3. Không coi ngữ điệu là phương tiện đánh dấu các kiểu câu.
Không dựa vào công dụng/ chức năng/ mục đích phát ngôn của toàn câu
để phân loại. Cũng từ những nguyên tắc này mà tác giả cho rằng câu cầu khiến
không nhất thiết phải được xác lập thành một kiểu câu riêng có được đích ngôn
trung là cầu khiến có thể diễn đạt bằng kiểu câu trần thuật hay nghi vấn (đây
chính là cách gián tiếp thể hiện hành động cầu khiến). Tuy nhiên có lẽ
do hành động yêu cầu, đề nghị, ra lệnh,… là hành động thường xuyên và quan
trọng đến mức không có ngôn ngữ nào trên thế giới thiếu kiểu câu này, vì vậy
tác giả đưa ra khái niệm về câu cầu khiến như sau:
Câu cầu khiến là câu có từ cầu khiến như hãy / đừng / chớ và chủ thể của
hãy / đừng / chớ bao giờ cũng ở ngôi thứ hai hay ngôi thứ nhất số nhiều; có khả
năng thêm từ hãy / đừng / chớ vào những câu đã nêu trên
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiHành động cầu khiến trong tiếng Việt
Trang 10
Như vậy là có sự khác biệt rạch ròi giữa câu cầu khiến và hành động cầu
khiến. Câu cầu khiến dựa vào dấu hiệu hình thức để xác định còn hành động cầu
khiến thì căn cứ vào lực ngôn trung.
Ngoài ra rải rác trên các tạp chí chuyên ngành có khá nhiều bài viết đề
cập đến câu cầu khiến, lời cầu khiến và hành động cầu khiến trong giao tiếp.
Chẳng hạn như Cầu khiến lịch sự, Gián tiếp và lịch sự trong lời cầu khiến tiếng
Việt của Vũ Thị Thanh Hương, Quan hệ “Quyền’’ và hành động ngôn từ cầu
khiến của Nguyễn Thị Thanh Bình,…
3. Nội dung nghiên cứu
Trong tiếng Việt, cầu khiến là một khái niệm rộng, thể hiện nhiều nét
nghĩa khác nhau như thỉnh cầu, ra lệnh, yêu cầu / đề nghị,…. Chính vì vậy mà
hành động cầu khiến được người Việt sử dụng cũng mang giá trị tại lời khác
nhau. Nó có thể là hành động ra lệnh, hành động thỉnh cầu hay hành động yêu
cầu / đề nghị,…để không chỉ thể hiện nội dung mà còn biểu đạt những sắc thái ý
nghĩa khác nhau của người nói trong giao tiếp. cách thể hiện hành động
cầu khiến trong mỗi ngôn ngữ nói chung, trong tiếng Việt nói riêng đều đa
dạng, phong phú thể hiện những nét đặc trưng văn hoá của quốc gia và từng địa
phương. Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tui tiếp nhận và vận dụng những
thành tựu của ngôn ngữ học về vấn đề cầu khiến để từ đó đặc trưng hoá các
cách thể hiện hành động cầu khiến trong tiếng Việt. Đó là:
− cách thể hiện trực tiếp hành động cầu khiến trong tiếng Việt
− cách thể hiện gián tiếp hành động cầu khiến trong tiếng Việt
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tui sử dụng những phương pháp
nghiên cứu khoa học phù hợp với đặc trưng chuyên ngành như: thu thập ngữ
liệu, phân loại, khảo sát, nhận xét... Các phương pháp đó bổ sung, hỗ trợ và tác
động qua lại lẫn nhau. Trong đó, phương pháp chủ yếu được sử dụng là:
! Phương pháp miêu tả: được dùng để khảo sát, miêu tả các loại hành
động cầu khiến chủ yếu và cách thể hiện chúng trong tiếng
Việt.
! Phương pháp thống kê: để xác định và đối chiếu đặc điểm ngữ nghĩa,
ngữ pháp của các loại hành động cầu khiến chủ yếu trong tiếng Việt.Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
Trang 11
! Phương pháp phân tích ngữ nghĩa – ngữ dụng học: có kết hợp với phân
tích ngữ nghĩa cú pháp của các biểu thức biểu hiện các loại hành động
cầu khiến chủ yếu trong tiếng Việt .
4.2. Nguồn ngữ liệu
Các ngữ liệu đã khảo sát và trình bày trong luận văn được thu thập chủ yếu
từ lời ăn tiếng nói hàng ngày mà người viết quan sát được và từ một số văn bản
viết, đặc biệt là các tác phẩm văn chương.
5. Cấu trúc của luận văn
Luận văn bao gồm 110 trang chính văn, một danh mục các tài liệu tham
khảo. Phần nội dung chính của luận văn được chia làm hai chương:
Chương Một có tiêu đề là Tổng quan về hành động ngôn từ và hành động
cầu khiến trong tiếng Việt. Trong chương này, luận văn trình bày hai vấn đề lớn
hành động ngôn từ và hành động cầu khiến trong tiếng Việt. Trong vấn đề thứ
nhất, luận văn trình bày về khái niệm hành động ngôn từø, các hành động ngôn
từ, điều kiện sử dụng hành động ngôn từ, nghĩa tường minh nghĩa hàm ẩn và
cách biểu hiện hành động ngôn từ. Trong vấn đề thứ hai, luận văn trình
bày về khái niệm cầu khiến, các loại hành động cầu khiến chủ yếu và cầu khiến
lịch sư.ï
Chương Hai có tiêu đề là cách thể hiện hành động cầu khiến
trong tiếng Việt. Trong chương này, luận văn trình bày hai cách phương
thức thể hiện trực tiếp và cách thể hiện gián tiếp hành động cầu khiến
trong tiếng Việt. cách thể hiện trực tiếp bao gồm cách tỉnh lược
chủ ngữ ở ngôi thứ hai, cách dùng tiểu từ tình thái, cách dùng vị
từ, phụ từ tình thái và cách dùng câu ngôn hành. cách gián tiếp
thể hiện ở dạng khẳng định và dạng nghi vấn.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiHành động cầu khiến trong tiếng Việt
Trang 12
NỘI DUNG
Chương một
TỔNG QUAN VỀ HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ
VÀ HÀNH ĐỘNG CẦU KHIẾN
1. HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ
1.1 Khái niệm về hành động ngôn từ
Khi tìm hiểu về lịch sử vấn đề lý thuyết hành động ngôn từ, người ta cho
rằng người đặt tiền đề, đi tiên phong cho lý thuyết này là nhà triết học người
Áo L.Wittgenstein . Ông đồng nhất hoạt động giao tiếp với hoạt động xã hội và
việc sử dụng ngôn từ (lời nói) như một hành động. Chính vì vậy tất cả đóng góp
của ông chỉ dừng lại ở việc tìm ra những quy tắc nhất định khi con người sử
dụng lời nói.
Nếu như L Wittgenstein là người đặt tiền đề thì J. L. Austin lại là người
đặt nền móng cho lý thuyết hành động ngôn từ. Qua công trình nghiên cứu
“How to do thing with words” ông bày tỏ luận điểm “To say is to do something”
(nói là làm) Ông cho rằng để biểu hiện, diễn tả một hành động ngôn từ thì cần
phải nói ra điều đó và làm - đi vào thực tế, thực tiễn sử dụng ngôn ngữ. Từ luận
điểm này mà người ta đã xây dựng nên lý thuyết về hành động ngôn từ. Như
vậy, hành động ngôn từ là nhấn mạnh bản chất của câu nói. Khi ta nói một câu
nghĩa là ta đã thực hiện một hành động nào đó. Chẳng hạn như thông báo,
khuyên, chúc mừng, tuyên bố, hứa hẹn,… Đó là những hành động được thực hiện
bằng ngôn từ và được gọi là hành động ngôn từ. Và J.L.Austin xem hành động
ngôn từ là một thể thống nhất những hành động:
− Hành động tạo lời (locutionary act)Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
Trang 13
− Hành động tại lời (illocutionary act)
− Hành động mượn lời (perlocutionary act)
1.2 Các hành động ngôn từ
! Hành động tạo lời: J.L.Austin đặt tên cho hành động này là “nói một
điều gì đó”. Đây là hành động sử dụng các yếu tố ngôn ngữ như ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp để tạo nên một câu nói
! Hành động tại lời: Hành động tại lời là nói một điều gì đó và thực
hiện điều đó như thế nào. Và thực hiện hành động ấy phải ngay khi
phát ra câu nói.
Ví dụ: – Lớp ồn quá! (Hành động tại lời là nhận xét lớp ồn)
– Không nói chuyện riêng. (Hành động tại lời là đề nghị học sinh không
nói chuyện riêng trong lớp)
Vì vậy hành động tại lời chính là lực ngôn trung, là đích phát ngôn. Nó
bị chi phối bởi các quy tắc hình thành tự nhiên theo cộng đồng với những điều
kiện sử dụng được thực hiện. Cốt lõi của hành động ngôn từ chính là hành động
tại lời.
! Hành động mượn lời : Hành động mượn lời là hành động thông qua
việc phát ngôn câu nói, người nói tác động đến tư tưởng, tình cảm…
của người tiếp nhận. Với một hành động mượn lời, người nghe có thể
không nhận ra ngay mặc dù hiểu được hành động tại lời. Một hành
động tại lời có thể có nhiều hành động mượn lời khác nhau.
VD : Một hành động tại lời là người nói không muốn tiếp chuyện với
người nghe và đưa ra một lời yêu cầu trực tiếp: Anh về cho em đi ngủ.
Hành động mượn lời có thể là một trong những trường hợp sau :
1. Mấy giờ rồi anh?
2. Ngày mai em phải đi dạy sớm .
3. Anh à ! Mẹ thường nhắc nhở em đi ngủ sớm có lợi cho sức khoẻ,…
J.R. Searle với lý thuyết về hành động ngôn từ: J. R. Searle đặc biệt quan
tâm đến người nói và điều được nói. Từ những mặt còn hạn chế của Austin,
Searle đưa ra khái niệm hành động ngôn từ gián tiếp. Qua công trình “Các hành
động ngôn từ gián tiếp”,1969, Searle bày tỏ quan điểm: Một hành động ngôn
từ gián tiếp là hành động ngôn từ được thực hiện bằng hình thức của một
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiHành động cầu khiến trong tiếng Việt
Trang 14
hành động ngôn từ khác. Nghĩa là một hành động tại lời được thực hiện gián
tiếp phải thông qua một hành động tại lời khác. Nó có đặc điểm sau:
− Một hành động ngôn từ gián tiếp được thực hiện thông qua những
hành động tại lời khác nhau.
− Cùng một hành động tại lời có thể tạo ra những hành động gián tiếp
khác nhau.
VD : Bạn có thể cho tớ mượn cái áo mưa được không?
Ở ví dụ trên hành động tại lời là hỏi (hình thức) nhưng mục đích lại là đề
ngh:Bạn hãy cho tớ mượn cái áo mưa.
J.R. Searle phân loại các hành động ngôn từ có sự tiến bộ hơn so với J.L.
Austin. Ông đưa ra 12 tiêu chí để phân loại. Trong đó có 3 tiêu chí quan trọng
chi phối sự phân loại đó là:
* Mục đích của hành động tại lời (Illocutionary point)
* Hướng thích nghi giữa lời lẽ và hiện thực (Direction of fit)
* Trạng thái tâm lý được biểu hiện.
Dựa vào những tiêu chí này mà J.R. Searle chia hành động ngôn từ ra
thành 5 loại :
(1) Khẳng định (Assertives)
* Mục đích của hành động tại lời là người nói chịu trách nhiệm về giá trị
chân lý của mệnh đề được biểu đạt.
* Hướng thích nghi là từ hiện thực đến lời lẽ.
* Trạng thái tâm lý là tin tưởng vào tính đúng đắn, giá trị chân lý của
điều được nói ra.
(2) Cầu khiến (Directive)-Mệnh lệnh
* Mục đích của hành động tại lời: nhằm để người tiếp nhận làm một việc
gì đó.
* Hướng thích nghi từ lời lẽ đến hiện thực: Lời lẽ có trước, hiện thực thay
đổi theo lời lẽ, do người tiếp nhận thực hiện
* Trạng thái tâm lý: Người nói mong muốn điều cầu khiến sẽ được thực
hiện
J.R. Searle phân loại hành động cầu khiến như sau:

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
M Chiến lược ngôn ngữ trong hành động cầu khiến và xin lỗi Luận văn Sư phạm 5
C Khảo sát về cách biểu đạt hành động thỉnh cầu trong giao tiếp bằng lời của người Việt và người Pháp Luận văn Sư phạm 1
E Tổ chức và hoạt động các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp Luận văn Sư phạm 0
N Quản lý nhà nước đối với hoạt động hành nghề dược của hệ thống nhà thuốc tư nhân tại quận Cầu Giấy, TP Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
T Suy nghĩ toàn cầu, hành động địa phương như McDonalds Quản trị Chiến Lược 0
M Khảo sát phương thức trực tiếp biểu hiện hành động cầu khiến trong tiếng Việt (liên hệ với tiếng Hán) qua tác phẩm văn học Văn hóa, Xã hội 0
Z Quản lý hoạt động dạy học thực hành hệ cao đẳng nghề tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp Luận văn Sư phạm 0
B Nguyễn văn A có nhu cầu làm đại lý kinh doanh xăng dầu cho công ty thương mại xuất nhập khẩu X. Hãy tư vấn các thủ tục pháp lý để A có thể tiến hành hoạt động kinh doanh xăng dầu chô công ty thương mại XNK X Tài liệu chưa phân loại 0
F Hành động cầu khiến trong ngôn ngữ kịch của Lưu Quang Vũ Tài liệu chưa phân loại 2
R Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt Tài liệu chưa phân loại 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top