vu_thu_tphd
New Member
Download miễn phí Tiểu luận Hãy đánh giá tác động của tự do hoá thương mại tới tăng trưởng và cùng kiệt đói ở Việt Nam
MỤC LỤC
Trang
I. Khái niệm về tự do hoá thương mại 1
II. Làn sóng tự do hoá thương mại hiện nay ở các nước đang phát triển 1
1. Thương mại là một trong những điều kiện cần thiết để các nước đang phát triển phát triển kinh tế
1
2. Toàn cầu hoá, khu vực hoá đã trở thành xu thế của nền kinh tế thế giới, trong đó tự do hoá thương mại là một mũi nhọn 6
3. Sự thất bại của cơ chế kế hoạch hoá tập trung 11
4. Những thay đổi trong ưu thế cạnh tranh dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ 13
III. Tác động của tự do hóa thương mại đến tăng trưởng và nghèo đói 14
1. Tác động của tự do hoá thương mại đến tăng trưởng 14
2. Tác động của tự do hoá thương mại tới nghèo đói 17
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2014-04-02-tieu_luan_hay_danh_gia_tac_dong_cua_tu_do_hoa_thuo.d3xMsw50zY.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-66050/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
y nói cách khác, có nhiều yếu tố đang tồn tại trong quá trình phát triển của thương mại thế giới đã làm cho thương mại tự do không những hấp dẫn, mà còn là cần thiết đối với các nước đang phát triển để phát triển. Đó là:Thứ nhất, trong suốt nhiều thập kỷ qua, khối lượng trao đổi mậu dịch giữa các nước trên thế giới không ngừng tăng lên. Nó lớn gấp 15 lần so với thời điểm sau đại chiến thế giới lần thứ hai. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của nó luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng sản lượng thế giới, thậm chí trong thập kỷ vừa qua nó còn gấp đôi. Điều đặc biệt hơn là, trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu 90, tốc độ tăng trưởng của nhóm các nước đang phát triển, tuy vẫn mang tính không đều giữa các khu vực. Sự phát triển này đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và giải quyết nhiều vấn đề khác của kinh tế vĩ mô như việc làm, mức sống v.v...
Thứ hai, sự thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế cũng là một yếu tố thúc đẩy làn sóng tự do hoá thương mại ở các nước đang phát triển. Tuy buôn bán hàng hoá vẫn chiếm phần chủ yếu, nhưng vai trò của buôn bán dịch vụ trong thương mại quốc tế đang dần tăng lên. Nó đã trở thành một lĩnh vực không thể thiếu trong các cuộc đàm phán về tự do hoá của các tổ chức thương mại quốc tế.
Yêu cầu đối với các nước đang phát triển trong việc tiến hành tự do hoá thương mại dịch vụ được bắt nguồn từ đặc điểm đặc trưng của dịch vụ (tức là sản xuất và tiêu dùng cùng đồng thời xảy ra theo không gian và thời gian) và nhu cầu phát triển của nền kinh tế hiện đại. Trên quy mô toàn cầu, các nước xuất khẩu dịch vụ nhiều thường là các nước phát triển và một số NIC, còn đại bộ phận các nước khác đều có nhu cầu nhập khẩu chúng. Trong điều kiện có nhiều hạn chế quốc gia từ phía các nước nhập khẩu, việc tiến hành tháo giỡ chúng dần dần là một nhu cầu cần thiết và trước mắt. Bên cạnh đó, sự phát triển hiện nay của khoa học và công nghệ đòi hỏi các nước muốn phát triển thì phải tham gia tích cực vào lĩnh vực trao đổi dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ viễn thông. Nhờ trao đổi này, trong một thời gian ngắn, ngành viễn thông của nhiều nước đang phát triển đã trở thành khu vực tăng trưởng nhanh nhất như ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Malayxia.
Bảng 2: Tỷ trọng của mậu dịch hàng hoá trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) về hàng hoá (%).
Tên nước hay nhóm nước
1986
1996
1997
Nhóm các nước thu nhập thấp và trung bình
46,1
76,8
79,6
Đông Á và Thái Bình Dương
48,1
127,3
89,9
Châu Âu và Trung Á
57,2
79,7
89
Mỹ La-tinh và Caribê
40,6
61,7
66,3
Trung Đông và Bắc Phi
52,1
78,4
72,0
Nam Á
22,1
39,2
39,6
Châu Phi Tiểu Sahara
70,3
102,5
94,4
Nhóm các nước thu nhập cao
70,4
178,8
78,7
Số liệu về một số nước đang phát triển riêng lẻ
Achentina
23,1
44,0
33,8
Brasil
26,0
24,9
28,9
Cămpuchia
4,3
95,2
86,8
Hồng Kông
513,0
1227,0
...
Cộng hoà Công-Gô
162,4
323,1
51,0
Ethiopia
32,7
41,2
...
Ghana
44,6
126,6
118,4
Honduras
80,1
234,7
238,2
Indonexia
55,0
69,7
75,9
Jamaica
146,3
299,3
330,2
Malayxia
163,5
269,0
271,4
Mexico
51,2
143,8
144,8
Panama
119,1
1069,3
254,4
Philippin
57,4
98,8
190,7
Singapore
697,4
763,6
753,9
Thái Lan
85,8
138,2
153,2
Nguồn:
- WB (1998), World Development Indicators 1998, p.310 – 312.
- WB (1999), World Development Indicators !999, P.324 -328
Thứ ba, sự phát triển nền kinh tế của các nước đang phát triển ngày càng phụ thuộc vào sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Trong hơn một thập kỷ gần đây, tất cả các nước đều có xu hướng muốn liên kết sâu hơn vào nền kinh tế thế giới với hy vọng nắm bắt được những cơ hội để phát triển kinh tế. Hay nói cách khác, vai trò của quan hệ kinh tế đối ngoại đối với sự phát triển kinh tế ngày càng trở nên quan trọng. Điều này có thể chứng minh bằng giá trị xuất khẩu hàng hóa so với tổng sản phẩm về quốc nội về hàng hoá. Theo số liệu ở bảng 2, xuất khẩu hàng hoá của tất cả các nước trên thế giới, đều có xu hướng tăng lên. Đáng tiếc là sự gia tăng này lại không động đều, đặc biệt ở nhóm các nước đang phát triển. Có những nước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa so với GDP hàng hoá năm 1996 đã tăng so với năm 1986 gấp 20 lần như cămpuchia, 9 lần như panama. Có một vài nước khác, thì chỉ gấp 2 hay 3 lần như Jamaica, Honduras, Ghana, Mexico và cộng hoà Công gô. Thế nhưng, cũng có những nước mà mức tăng không đáng kể như Brasil, Ethiopia, Achentina. Cũng cần ghi nhận rằng sự gia tăng này càng lớn có nghĩa là sự phát triển kinh tế của các nước sẽ càng phụ thuộc nhiều hơn vào sự thăng trầm của nền kinh tế thế giới.
Thứ tư, thực trạng chính sách thương mại của các nước đang phát triển có mức bảo hộ cao, đặc biệt đối với ngành chế tạo, với độ phân tán lớn. Bên cạnh đó, đa số các nước trong nhóm này chưa đạt được sự nhất quán giữa chính sách thương mại và các chính sách kinh tế vĩ mô. Trong điều kiện đó, các nguồn lực khan hiếm được sử dụng không có hiệu quả. Vì vậy cải cách thương mại theo hướng mở cửa không những tạo điều kiện sử dụng các nguồn lực có hiệu quả hơn, mà còn cho các nước này có cơ hội tranh thủ được kinh nghiệm phát triển kinh tế và thành tựu khoa học công nghệ của các nước đi trước.
Đến đây có thể nhận định rằng từ nhận thức truyền thống về những lợi ích mà thương mại đem lại, trên cơ sở thực tiễn của quá trình phát triển quan hệ mậu dịch quốc tế. Tự bản thân các nước đang phát triển thấy cần thiết phải tích cực thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại mở cửa hơn nữa vì sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Sự hiện diện của nhu cầu nội tại về một nền kinh tế mở cửa hơn là điều kiện cần thiết nhưng chưa là điều kiện đủ cho sự phát triển của làn sóng tự do hoá thương mại hiện nay ở các nước đang phát triển. Vậy cái gì đã thúc đẩy sự vận động của nhu cầu nội tại này? Đó chính là một số nhân tố quốc tế được đề cập đến sau đây.
2. Toàn cầu hoá, khu vực hoá đã trở thành xu thế của nền kinh tế thế giới, trong đó tự do hoá thương mại là một mũi nhọn
Một nền kinh tế toàn cầu không phải là một hiện tượng hoàn toàn mới mẻ, nó đã được người ta nói đến cách đây khoảng một thế kỷ, khi liên kết kinh tế được bắt đầu phát triển. Lúc này, tính toàn cầu chỉ được thể hiện thông qua việc giảm các hàng rào thương mại và được nảy sinh từ khả năng cắt giảm chi phí vận chuyển do sự phát triển của đường sắt và đường thuỷ.
Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày nay không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực thương mại quốc tế, mà nó còn bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Đó là kết quả của quá trình quốc tế hoá trong mọi lĩnh vực sản xuất, lưu thông, tư bản, tài chính - tiền tệ, kỹ thuật v.v... dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Ở đây, sẽ không đề cập một cách chi tiết đến các nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá hiện nay cũng như các tác động khác nhau của nó đối với các nước trên thế giới, khi trình độ phát triển kinh tế của họ quá...