o0o_meoiu_o0o
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
A. LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội càng phát triển đời sống vật chất của con người ngày càng cao, việc định đoạt tài sản của cá nhân trước khi chết thông qua việc lập di chúc là một nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên để bản di chúc phát sinh hiệu lực trong việc phân chia di sản thừa kế thì cần tuân theo các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, nội dung và hình thức của di chúc; hình thức của di chúc là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu lực của bản di chúc nói riêng và việc phân chia di sản thừa kế nói chung và cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các vụ án tranh chấp về thừa kế theo di chúc. Sau đây chúng ta sẽ cùng đi nghiên cứu để hiểu rõ hơn về: “hình thức của di chúc”.
B. NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DI CHÚC VÀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC
1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại di chúc
- Di chúc là một thuật ngữ được đề cập và sử dụng nhiều trong đời sống. Thuật ngữ này từ xưa đến nay thường được thường được nhân dân ta hiểu một cách đơn giản, truyền thống “Di chúc là sự dặn lại của một người trước lúc chết những việc người sau cần làm và nên làm”. Tuy nhiên, bản di chúc này lại không có hiệu lực gì đối với việc phân chia di sản thừa kế vì di chúc đó không thể hiện được ý chí của người chết trong việc trong việc dịch chuyển di sản, không có nội dung định đoạt tài sản. Do đó, dù ngừơi chết có để lại di chúc thì cũng không có căn cứ để chia theo di chúc mà vẫn phải chia di sản theo pháp luật.
Xuất phát từ thực tế trên pháp luật nước ta qua nhiều thời kì với nhiều văn bản pháp lí đã ngày càng thực hiện và chuẩn hóa những thuật ngữ di chúc trong luật. Điều 646 BLDS quy định: “ Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết” .
Di chúc thường được thể hiện thông qua một hình thức nhất định trong đó người lập di chuc sẽ bày tỏ ý chí của mình trong việc dịch chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi họ chết với ý nghĩa luôn là căn cứ để dựa vào đóthực hiện quá trình dịch chuyển tài sản của người chết cho người khác và nó bao hàm những đặc điểm sau:
Một là, Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là bất cứ chủ thể nào khác.
Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, qua việc lập di chúc cá nhân đó làm xác lập một giao dịch dân sự về thừa kế, theo đó họ sẽ định đoạt phần tài sản của mình cho những người khác mà họ không cần biết những người đó có đồng ý nhận di sản của mình hay không. Ngoài ra di chúc chung của vợ chồng cũng vậy cho dù là sự thể hiện ý chí của hai vợ chồng nhưng nó vẫn là ý chí đơn phương của một bên trong giao dịch dân sự.
Hai là, mục đích của việc lập di chúc là nhằm dịch chuyển di sản của người chết cho người khác đã được xác định trong di chúc.
Mục đích của lập di chúc là một nội dung quan trọng không thể thiếu được của một bản di chúc nếu muốn được coi là một căn cứ để dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống khác thì không thể thiếu được nội dung này, chỉ với nội dung này thì di chúc mới thực sự là một phương tiện để người để lại di sản thừa kế thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản của mình. Hơn nữa chỉ thông qua thừa kế quyền sở hữu của một người đối với thành quả lao động của mình mới được chuyển dịch từ đời này sang đời khác, và đặc biệt ngay cả khi họ chết quyền định đoạt tài sản của họ vẫn được pháp luật bảo vệ và tôn trọng.
Ba là, di chúc là loại giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực pháp luật sau khi người lập di chúc chết.
Xuất phát từ việc di chúc chỉ là ý chí đơn phương của người lập ra nó nên người lập di chúc luôn luôn có quyền tự mình thay đổi nội dung đã định đoạt trong di chúc hay có quyền hủy bỏ di chúc, do vậy người lập di chúc đã lập xong di chúc nhưng vẫn còn sống thì người thừa kế theo di chúc vẫn không có bất kỳ một quyền nào đối với tài sản của người lập di chúc, họ cũng chưa chắc chắn có được hưởng di chúc đó hay không. Mặt khác, pháp luật cũng cho phép nếu sự định đoạt trong di chúc đã lập không còn phù hợp với hoàn cảnh và tình cảm hiện tại thì người lập di chúc vẫn có quyền sửa đổi bổ sung hay hủy bỏ di chúc. Vì vậy, để một di chúc phát sinh hiệu lực thì đòi hỏi người lập di chúc phải chết.
Phân loại di chúc
Hình thức của di chúc là sự thể hiện ý chí của người để lại di sản thừa kế ra bên ngoài thế giới khách quan là sự chứa đựng nội dung của di chúc theo một trình tự kết cấu nhất định. Vì vậy, chia di chúc thành hai loại sau: di chúc bằng miệng và di chúc bằng văn bản
Di chúc bằng văn bản là loại di chúc được thể hiện dưới dạng chữ viết có chứng nhận hay không có chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Di chúc bằng văn bản bao gồm:
- Di chúc bằng văn bản có người làn chứng
- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
- Di chúc bằng văn bản có chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn
- Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực
Di chúc bằng miệng là sự bày tỏ bằng lời nói ý chí của người để lại di sản thừa kế lúc còn sống trong việc định đoạt khối tài sản của mình cho người khác sau khi mình chết.
2.Hình thức của di chúc theo pháp luật Việt nam qua các thời kỳ
2.1.Hình thức của di chúc trong luật Hồng Đức
Quốc triều hình luật là bộ luật được giữ và lưu truyền đến nay, nó là minh chứng cho thành tựu đáng kể trên lĩnh vực pháp luật và điển chế của triều đại nhà Lê. Trong Quốc triều hình luật vấn đề thừa kế được quy định từ điều 374 đến điều 400. Pháp luật thời Lê thừa nhận hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Trong đó thừa kế theo di chúc có quy định như sau: Theo hình thức thừa kế này pháp luật tôn trọng ý muốn và quyền quyết định của người có tài sản. Theo điều 390 Quốc triều hình luật thì cha mẹ nhiều tuổi về già phải có trách nhiệm lo làm chúc thư để lại tài sản cho con cái, quy định này nhằm tránh sự tranh chấp tài sản về sau
Di chúc được lập dưới dạng văn bản gọi là chúc thư, trong trường hợp không biết chữ thì chúc thư có thể nhờ xã trưởng viết thay và chứng thực (điều 366 QTHL) trong trường hợp chúc thư không tuân thủ hình thức do pháp luật quy định thì sẽ không có giá trị pháp lý lúc đó di sản thừa kế được chia theo pháp luật. Trường hợp di chúc không qua xã trưởng xác nhận thì cần có chức sắc trong làng làm chứng. Theo đoạn 273 Hồng Đức Thiện Chính thì quy định chúc thư chỉ được coi là hợp pháp nếu có Hương trưởng, quan viên trong bản từ 30 tuổi trở lên là người viết thay hay chứng kiến. Như vậy, chúc thư phải có người làm chứng là người có chức sắc xã hội, là người đứng đầu họ tộc hay hương chủ làm chứng. Quy định này nhằm đảm bảo tính khách quan của di chúc, tránh những tranh chấp về chữ viết, nội dung trong di chúc
2.2.Hình thức của di chúc trong luật Gia Long
So với thời Lê, thời Nguyễn mà cụ thheer là trong luật Hoàng Việt Luật Lệ có rất ít chế định liên quan đến thừa kế. Tuy nhiên, những nguyên tắc về quan hệ tài sản và thừa kế cơ bản vẫn tương tự như luật thời nhà Lê nhưng đối với hình thức thừa kế theo di chúc thì trong Hoàng Việt Luật Lệ lại không quy định về hình thức của di chúc mà chỉ có quy định về người thừa kế theo di chúc có quyền nhận di sản sau khi cha mẹ chết
2.3.Hình thức của di chúc dưới thời Pháp thuộc
So với pháp luật triều Lê và Nguyễn thì pháp luật thừa kế thời Pháp thuộc theo khuôn mẫu của Bộ luật Dân sự Napoleon đã quy định một cách chi tiết hơn trong bộ luật Dân dân luật Bắc Kỳ (DLBK) và Hoàng việt trung kỳ hộ luật (HVTKHL). Pháp luật thời kỳ này cũng thừa nhận hai hình thức chia thừa kế là: chia theo di chúc và chia theo pháp luật. Về hình thức di chúc được quy định như sau
Pháp luật quy định người thành niên hay đã thoát quyền nếu có đủ chuyên môn đều có thể làm di chúc để xử lý tất cả tài sản của mình (điều 321 DLBK và điều 313 HVTKHL), người cha có thể lập chúc thư để định đoạt tài sản của mình tùy theo ý chí của mình nhưng phải giữ quyền lợi cho người vợ chính (điều 320 DLBK và điều 312 HVTKHL). Người lập chúc thư có thể truất quyền thừa kế của một hay nhiều người có trong những người được thưa kế, việc truất quyền phải được lập thành văn bản viên quản lý văn khế lập hay do lý trưởng nơi cư trú của người lập chúc thư.
Chúc thư phải làm thành văn bản hay do viên quản lý văn khế làm ra hay có công chứng thị thực, chúc thư không có viên chức thị thực phải do người lập chúc thư viết lấy và ký tên. Nếu người lập chúc thư đọc để người khác viết thay thì phải có ít nhất hai người đã thành niên làm chứng, người làm chứng thường là lý trưởng tại nơi cư trú của người lập chúc thư nếu ở xa không về nơi trú quán được thì chúc thư ấy phải có sự chứng kiến của lý trưởng nơi ở hiện cuaqr người lập chúc thư (điều 326 DLBK và điều 316 HVTKHL).
Chúc thư phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập chúc thư, họ, tên, tuổi, nơi trú quán của người làm chứng. Chúc thư khi đã làm xong thì lý trưởng đọc to cho mọi người cùng nghe rồi lý trưởng người lập chúc thư, người viết hộ (nếu có) và những người làm chứng cùng ký tên vào văn bản, có bao nhiêu người được thừa kế thì chúc thư được làm thành bấy nhiêu bản gốc để gửi cho mỗi người một bản
2.4.Giai đoạn từ 1945 đến nay
Sau cách mạng tháng Tám nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời. một Nhà nước non trẻ phải đối mặt với những vấn đề phức tạp về chính trị, văn hóa, xã hội,...Nhiệm vụ lúc này là bảo vệ củng cố thành quả Cách mạng kể cả những vấn đề liên quan kể cả những vấn đề liên quan đến lĩnh vực dân sự. Để đảm bảo cho quan hệ pháp luật dân sự phát triển bình thường Nhà nước cần có hệ thống pháp luật. Tuy nhiên do thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1986 là chế độ bao cấp nên các quan hệ dân sự được hành chính hóa. Do vậy, hệ thống pháp luật dân sự không có văn bản pháp quy đơn hành điều chỉnh các quan hệ dân sự và các vấn đề dan sự được quy định trên trong các văn bản hành chính. Mặc dù, các quy định thừa kế chiếm số lượng nhiều hơn so với các quy định dân sự nhưng các quy định thừa kế giai đoạn từ 1945 đến 1986 vẫn chỉ là những quy định chung cho vấn đề hình thức của di chúc cũng chưa được đề cập nhiều.
Để làm rõ thay đổi và phát triển về hình thức của di chúc trong giai đoạn này chúng ta đi vào so sánh 4 văn bản điển hình quy định về thừa kế sau:
2.4.1 Hình thức của di chúc quy định trong thông tư số 81 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế ban hành ngày 24/7/1981.
Theo quy định tại khoản A mục IV của thông tư số 81 ta thấy hình thức di chúc cũng được chia làm hai loại, là di chúc viết và di chúc miệng, trong đó:
- Đối với di chúc có chữ viết tắt hay viết bằng ký hiệu
Theo khoản 2 điều 653, BLDS thì đây là một quy định mang tính định hướng với mục đích hướng dẫn người lập di chúc không nên viết tắt hay viết bằng ký hiệu để tránh sự hiểu nhầm sai ý chí của người lập di chúc dẫn đến những tranh chấp không đáng có giữa những người thừa kế. Tuy nhiên, để áp dụng quy định trên sao cho đúng với quy định của điều luật thì trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc, hiểu sai so với quy định pháp luật khiến thực tiễn xét xử nhiều vụ án được giải quyết còn chưa thỏa đáng. Do vậy, để khắc phục tình trạng trên cơ quan chức năng cần có hướng dẫn ban hành quy định theo hướng:
Nếu mà di chúc có chữ viết tắt hay viết bằng ký hiệu mà toàn bộ những người thừa kế được hiểu theo một nghĩa thống nhất thì chữ viết tắt hay viết bằng ký hiệu đó đã không ảnh hưởng đến hiệu lực của di chúc nên trong trường hợp này vẫn thừa nhận di chúc và di chúc sẽ phát sinh hiệu lực pháp luật. Nếu những người thừa kế hiểu khác nhau không có sự thống nhất thì giải quyết theo hai hướng: Di chúc mà có nhiều chữ viết tắt hay bằng ký hiệu chỉ ảnh hưởng đến phần đó của di chúc thì chỉ phần có chữ viết tắt hay viết bằng ký hiệu đó là không có hiệu lực pháp luật còn những phần còn lại vẫn có hiệu lực; còn nếu chữ viết tắt hay viết bằng ký hiệu đó ảnh hưởng đến toàn bộ nội dung của di chúc thì di chúc đó sẽ không có hiệu lực pháp luật.
-Đối với di chúc miệng: Nếu người di chúc miệng sau khi di chúc miệng còn sống mà họ không muốn lập di chúc mới và họ có khả năng mang di chúc miệng đi công chứng và chứng thực thì người di chúc miệng phải tự mình mang di chúc miệng đi công chứng hay chứng thực. Nếu người di chúc miệng không còn sống hay mặc dù còn sống nhưng không có khả năng mang di chúc miệng đi công chứng, chứng thực thì người có nghĩa vụ mang di chúc miệng đi công chứng, chứng thực sẽ là một trong những người làm chứng trong di chúc miệng
-Hình thức di chúc chung của vợ chồng: Chúng ta cần tách di chúc chung của vợ, chồng ra khỏi di chúc của cá nhân và xây dựng thành một mục trong chương thừa kế theo di chúc.
C.KẾT LUẬN
Qua trình bày và phân tích trong bài viết ta có được cái nhìn tổng quan về hình thức của di chúc trong pháp luật dân sự Việt Nam. Qua đó, ta đánh giá được thực trạng các quy định của pháp luật về hình thức của di chúc, về thực trạng áp dụng pháp luật về hình thức của di chúc trong việc phân chia di sản thừa kế. Các quy định hiện hành của BLDS năm 2005 về hình thức của di chúc đã có nhiều điểm tích cực tuy nhiên, cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định vì vậy cần tiếp tục được hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội, phát huy hiệu quả pháp luật về hình thức của di chúc.
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 1
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DI CHÚC VÀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC 1
1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại di chúc 1
2.Hình thức của di chúc theo pháp luật Việt nam qua các thời kỳ 3
2.1.Hình thức của di chúc trong luật Hồng Đức 3
2.2.Hình thức của di chúc trong luật Gia Long 4
2.3.Hình thức của di chúc dưới thời Pháp thuộc 5
2.4.Giai đoạn từ 1945 đến nay 5
2.4.1 Hình thức của di chúc quy định trong thông tư số 81 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế ban hành ngày 24/7/1981. 6
2.4.2 Hình thức di chức được quy định trong pháp luật thừa kế ngày 30/08/1990 7
2.4.3 Hình thức di chúc được quy định tronng BLDS 1995 8
2.4.4 Hình thức của di chúc theo quy định BLDS năm 2005 9
II. HÌNH THỨC DI CHÚC THEO QUY ĐỊNH CỦA BLDS 2005 9
1. Di chúc bằng văn bản (điều 653 BLDS năm 2005) 9
2. Di chúc miệng (Điều 651, khoản 5 điều 652) 16
III.THỰC TRẠNG ÁP DỤNG LUẬT PHÂN CHIA DI SẢN THEO DI CHÚC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC 17
1. Thực trạng áp dụng luật phân chia di sản theo di chúc 17
2.Phương hướng hoàn thiện quy định pháp luật về hình thức di chúc 18
C.KẾT LUẬN 20
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
A. LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội càng phát triển đời sống vật chất của con người ngày càng cao, việc định đoạt tài sản của cá nhân trước khi chết thông qua việc lập di chúc là một nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên để bản di chúc phát sinh hiệu lực trong việc phân chia di sản thừa kế thì cần tuân theo các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, nội dung và hình thức của di chúc; hình thức của di chúc là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu lực của bản di chúc nói riêng và việc phân chia di sản thừa kế nói chung và cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các vụ án tranh chấp về thừa kế theo di chúc. Sau đây chúng ta sẽ cùng đi nghiên cứu để hiểu rõ hơn về: “hình thức của di chúc”.
B. NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DI CHÚC VÀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC
1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại di chúc
- Di chúc là một thuật ngữ được đề cập và sử dụng nhiều trong đời sống. Thuật ngữ này từ xưa đến nay thường được thường được nhân dân ta hiểu một cách đơn giản, truyền thống “Di chúc là sự dặn lại của một người trước lúc chết những việc người sau cần làm và nên làm”. Tuy nhiên, bản di chúc này lại không có hiệu lực gì đối với việc phân chia di sản thừa kế vì di chúc đó không thể hiện được ý chí của người chết trong việc trong việc dịch chuyển di sản, không có nội dung định đoạt tài sản. Do đó, dù ngừơi chết có để lại di chúc thì cũng không có căn cứ để chia theo di chúc mà vẫn phải chia di sản theo pháp luật.
Xuất phát từ thực tế trên pháp luật nước ta qua nhiều thời kì với nhiều văn bản pháp lí đã ngày càng thực hiện và chuẩn hóa những thuật ngữ di chúc trong luật. Điều 646 BLDS quy định: “ Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết” .
Di chúc thường được thể hiện thông qua một hình thức nhất định trong đó người lập di chuc sẽ bày tỏ ý chí của mình trong việc dịch chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi họ chết với ý nghĩa luôn là căn cứ để dựa vào đóthực hiện quá trình dịch chuyển tài sản của người chết cho người khác và nó bao hàm những đặc điểm sau:
Một là, Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là bất cứ chủ thể nào khác.
Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, qua việc lập di chúc cá nhân đó làm xác lập một giao dịch dân sự về thừa kế, theo đó họ sẽ định đoạt phần tài sản của mình cho những người khác mà họ không cần biết những người đó có đồng ý nhận di sản của mình hay không. Ngoài ra di chúc chung của vợ chồng cũng vậy cho dù là sự thể hiện ý chí của hai vợ chồng nhưng nó vẫn là ý chí đơn phương của một bên trong giao dịch dân sự.
Hai là, mục đích của việc lập di chúc là nhằm dịch chuyển di sản của người chết cho người khác đã được xác định trong di chúc.
Mục đích của lập di chúc là một nội dung quan trọng không thể thiếu được của một bản di chúc nếu muốn được coi là một căn cứ để dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống khác thì không thể thiếu được nội dung này, chỉ với nội dung này thì di chúc mới thực sự là một phương tiện để người để lại di sản thừa kế thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản của mình. Hơn nữa chỉ thông qua thừa kế quyền sở hữu của một người đối với thành quả lao động của mình mới được chuyển dịch từ đời này sang đời khác, và đặc biệt ngay cả khi họ chết quyền định đoạt tài sản của họ vẫn được pháp luật bảo vệ và tôn trọng.
Ba là, di chúc là loại giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực pháp luật sau khi người lập di chúc chết.
Xuất phát từ việc di chúc chỉ là ý chí đơn phương của người lập ra nó nên người lập di chúc luôn luôn có quyền tự mình thay đổi nội dung đã định đoạt trong di chúc hay có quyền hủy bỏ di chúc, do vậy người lập di chúc đã lập xong di chúc nhưng vẫn còn sống thì người thừa kế theo di chúc vẫn không có bất kỳ một quyền nào đối với tài sản của người lập di chúc, họ cũng chưa chắc chắn có được hưởng di chúc đó hay không. Mặt khác, pháp luật cũng cho phép nếu sự định đoạt trong di chúc đã lập không còn phù hợp với hoàn cảnh và tình cảm hiện tại thì người lập di chúc vẫn có quyền sửa đổi bổ sung hay hủy bỏ di chúc. Vì vậy, để một di chúc phát sinh hiệu lực thì đòi hỏi người lập di chúc phải chết.
Phân loại di chúc
Hình thức của di chúc là sự thể hiện ý chí của người để lại di sản thừa kế ra bên ngoài thế giới khách quan là sự chứa đựng nội dung của di chúc theo một trình tự kết cấu nhất định. Vì vậy, chia di chúc thành hai loại sau: di chúc bằng miệng và di chúc bằng văn bản
Di chúc bằng văn bản là loại di chúc được thể hiện dưới dạng chữ viết có chứng nhận hay không có chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Di chúc bằng văn bản bao gồm:
- Di chúc bằng văn bản có người làn chứng
- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
- Di chúc bằng văn bản có chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn
- Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực
Di chúc bằng miệng là sự bày tỏ bằng lời nói ý chí của người để lại di sản thừa kế lúc còn sống trong việc định đoạt khối tài sản của mình cho người khác sau khi mình chết.
2.Hình thức của di chúc theo pháp luật Việt nam qua các thời kỳ
2.1.Hình thức của di chúc trong luật Hồng Đức
Quốc triều hình luật là bộ luật được giữ và lưu truyền đến nay, nó là minh chứng cho thành tựu đáng kể trên lĩnh vực pháp luật và điển chế của triều đại nhà Lê. Trong Quốc triều hình luật vấn đề thừa kế được quy định từ điều 374 đến điều 400. Pháp luật thời Lê thừa nhận hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Trong đó thừa kế theo di chúc có quy định như sau: Theo hình thức thừa kế này pháp luật tôn trọng ý muốn và quyền quyết định của người có tài sản. Theo điều 390 Quốc triều hình luật thì cha mẹ nhiều tuổi về già phải có trách nhiệm lo làm chúc thư để lại tài sản cho con cái, quy định này nhằm tránh sự tranh chấp tài sản về sau
Di chúc được lập dưới dạng văn bản gọi là chúc thư, trong trường hợp không biết chữ thì chúc thư có thể nhờ xã trưởng viết thay và chứng thực (điều 366 QTHL) trong trường hợp chúc thư không tuân thủ hình thức do pháp luật quy định thì sẽ không có giá trị pháp lý lúc đó di sản thừa kế được chia theo pháp luật. Trường hợp di chúc không qua xã trưởng xác nhận thì cần có chức sắc trong làng làm chứng. Theo đoạn 273 Hồng Đức Thiện Chính thì quy định chúc thư chỉ được coi là hợp pháp nếu có Hương trưởng, quan viên trong bản từ 30 tuổi trở lên là người viết thay hay chứng kiến. Như vậy, chúc thư phải có người làm chứng là người có chức sắc xã hội, là người đứng đầu họ tộc hay hương chủ làm chứng. Quy định này nhằm đảm bảo tính khách quan của di chúc, tránh những tranh chấp về chữ viết, nội dung trong di chúc
2.2.Hình thức của di chúc trong luật Gia Long
So với thời Lê, thời Nguyễn mà cụ thheer là trong luật Hoàng Việt Luật Lệ có rất ít chế định liên quan đến thừa kế. Tuy nhiên, những nguyên tắc về quan hệ tài sản và thừa kế cơ bản vẫn tương tự như luật thời nhà Lê nhưng đối với hình thức thừa kế theo di chúc thì trong Hoàng Việt Luật Lệ lại không quy định về hình thức của di chúc mà chỉ có quy định về người thừa kế theo di chúc có quyền nhận di sản sau khi cha mẹ chết
2.3.Hình thức của di chúc dưới thời Pháp thuộc
So với pháp luật triều Lê và Nguyễn thì pháp luật thừa kế thời Pháp thuộc theo khuôn mẫu của Bộ luật Dân sự Napoleon đã quy định một cách chi tiết hơn trong bộ luật Dân dân luật Bắc Kỳ (DLBK) và Hoàng việt trung kỳ hộ luật (HVTKHL). Pháp luật thời kỳ này cũng thừa nhận hai hình thức chia thừa kế là: chia theo di chúc và chia theo pháp luật. Về hình thức di chúc được quy định như sau
Pháp luật quy định người thành niên hay đã thoát quyền nếu có đủ chuyên môn đều có thể làm di chúc để xử lý tất cả tài sản của mình (điều 321 DLBK và điều 313 HVTKHL), người cha có thể lập chúc thư để định đoạt tài sản của mình tùy theo ý chí của mình nhưng phải giữ quyền lợi cho người vợ chính (điều 320 DLBK và điều 312 HVTKHL). Người lập chúc thư có thể truất quyền thừa kế của một hay nhiều người có trong những người được thưa kế, việc truất quyền phải được lập thành văn bản viên quản lý văn khế lập hay do lý trưởng nơi cư trú của người lập chúc thư.
Chúc thư phải làm thành văn bản hay do viên quản lý văn khế làm ra hay có công chứng thị thực, chúc thư không có viên chức thị thực phải do người lập chúc thư viết lấy và ký tên. Nếu người lập chúc thư đọc để người khác viết thay thì phải có ít nhất hai người đã thành niên làm chứng, người làm chứng thường là lý trưởng tại nơi cư trú của người lập chúc thư nếu ở xa không về nơi trú quán được thì chúc thư ấy phải có sự chứng kiến của lý trưởng nơi ở hiện cuaqr người lập chúc thư (điều 326 DLBK và điều 316 HVTKHL).
Chúc thư phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập chúc thư, họ, tên, tuổi, nơi trú quán của người làm chứng. Chúc thư khi đã làm xong thì lý trưởng đọc to cho mọi người cùng nghe rồi lý trưởng người lập chúc thư, người viết hộ (nếu có) và những người làm chứng cùng ký tên vào văn bản, có bao nhiêu người được thừa kế thì chúc thư được làm thành bấy nhiêu bản gốc để gửi cho mỗi người một bản
2.4.Giai đoạn từ 1945 đến nay
Sau cách mạng tháng Tám nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời. một Nhà nước non trẻ phải đối mặt với những vấn đề phức tạp về chính trị, văn hóa, xã hội,...Nhiệm vụ lúc này là bảo vệ củng cố thành quả Cách mạng kể cả những vấn đề liên quan kể cả những vấn đề liên quan đến lĩnh vực dân sự. Để đảm bảo cho quan hệ pháp luật dân sự phát triển bình thường Nhà nước cần có hệ thống pháp luật. Tuy nhiên do thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1986 là chế độ bao cấp nên các quan hệ dân sự được hành chính hóa. Do vậy, hệ thống pháp luật dân sự không có văn bản pháp quy đơn hành điều chỉnh các quan hệ dân sự và các vấn đề dan sự được quy định trên trong các văn bản hành chính. Mặc dù, các quy định thừa kế chiếm số lượng nhiều hơn so với các quy định dân sự nhưng các quy định thừa kế giai đoạn từ 1945 đến 1986 vẫn chỉ là những quy định chung cho vấn đề hình thức của di chúc cũng chưa được đề cập nhiều.
Để làm rõ thay đổi và phát triển về hình thức của di chúc trong giai đoạn này chúng ta đi vào so sánh 4 văn bản điển hình quy định về thừa kế sau:
2.4.1 Hình thức của di chúc quy định trong thông tư số 81 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế ban hành ngày 24/7/1981.
Theo quy định tại khoản A mục IV của thông tư số 81 ta thấy hình thức di chúc cũng được chia làm hai loại, là di chúc viết và di chúc miệng, trong đó:
- Đối với di chúc có chữ viết tắt hay viết bằng ký hiệu
Theo khoản 2 điều 653, BLDS thì đây là một quy định mang tính định hướng với mục đích hướng dẫn người lập di chúc không nên viết tắt hay viết bằng ký hiệu để tránh sự hiểu nhầm sai ý chí của người lập di chúc dẫn đến những tranh chấp không đáng có giữa những người thừa kế. Tuy nhiên, để áp dụng quy định trên sao cho đúng với quy định của điều luật thì trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc, hiểu sai so với quy định pháp luật khiến thực tiễn xét xử nhiều vụ án được giải quyết còn chưa thỏa đáng. Do vậy, để khắc phục tình trạng trên cơ quan chức năng cần có hướng dẫn ban hành quy định theo hướng:
Nếu mà di chúc có chữ viết tắt hay viết bằng ký hiệu mà toàn bộ những người thừa kế được hiểu theo một nghĩa thống nhất thì chữ viết tắt hay viết bằng ký hiệu đó đã không ảnh hưởng đến hiệu lực của di chúc nên trong trường hợp này vẫn thừa nhận di chúc và di chúc sẽ phát sinh hiệu lực pháp luật. Nếu những người thừa kế hiểu khác nhau không có sự thống nhất thì giải quyết theo hai hướng: Di chúc mà có nhiều chữ viết tắt hay bằng ký hiệu chỉ ảnh hưởng đến phần đó của di chúc thì chỉ phần có chữ viết tắt hay viết bằng ký hiệu đó là không có hiệu lực pháp luật còn những phần còn lại vẫn có hiệu lực; còn nếu chữ viết tắt hay viết bằng ký hiệu đó ảnh hưởng đến toàn bộ nội dung của di chúc thì di chúc đó sẽ không có hiệu lực pháp luật.
-Đối với di chúc miệng: Nếu người di chúc miệng sau khi di chúc miệng còn sống mà họ không muốn lập di chúc mới và họ có khả năng mang di chúc miệng đi công chứng và chứng thực thì người di chúc miệng phải tự mình mang di chúc miệng đi công chứng hay chứng thực. Nếu người di chúc miệng không còn sống hay mặc dù còn sống nhưng không có khả năng mang di chúc miệng đi công chứng, chứng thực thì người có nghĩa vụ mang di chúc miệng đi công chứng, chứng thực sẽ là một trong những người làm chứng trong di chúc miệng
-Hình thức di chúc chung của vợ chồng: Chúng ta cần tách di chúc chung của vợ, chồng ra khỏi di chúc của cá nhân và xây dựng thành một mục trong chương thừa kế theo di chúc.
C.KẾT LUẬN
Qua trình bày và phân tích trong bài viết ta có được cái nhìn tổng quan về hình thức của di chúc trong pháp luật dân sự Việt Nam. Qua đó, ta đánh giá được thực trạng các quy định của pháp luật về hình thức của di chúc, về thực trạng áp dụng pháp luật về hình thức của di chúc trong việc phân chia di sản thừa kế. Các quy định hiện hành của BLDS năm 2005 về hình thức của di chúc đã có nhiều điểm tích cực tuy nhiên, cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định vì vậy cần tiếp tục được hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội, phát huy hiệu quả pháp luật về hình thức của di chúc.
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 1
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DI CHÚC VÀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC 1
1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại di chúc 1
2.Hình thức của di chúc theo pháp luật Việt nam qua các thời kỳ 3
2.1.Hình thức của di chúc trong luật Hồng Đức 3
2.2.Hình thức của di chúc trong luật Gia Long 4
2.3.Hình thức của di chúc dưới thời Pháp thuộc 5
2.4.Giai đoạn từ 1945 đến nay 5
2.4.1 Hình thức của di chúc quy định trong thông tư số 81 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế ban hành ngày 24/7/1981. 6
2.4.2 Hình thức di chức được quy định trong pháp luật thừa kế ngày 30/08/1990 7
2.4.3 Hình thức di chúc được quy định tronng BLDS 1995 8
2.4.4 Hình thức của di chúc theo quy định BLDS năm 2005 9
II. HÌNH THỨC DI CHÚC THEO QUY ĐỊNH CỦA BLDS 2005 9
1. Di chúc bằng văn bản (điều 653 BLDS năm 2005) 9
2. Di chúc miệng (Điều 651, khoản 5 điều 652) 16
III.THỰC TRẠNG ÁP DỤNG LUẬT PHÂN CHIA DI SẢN THEO DI CHÚC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC 17
1. Thực trạng áp dụng luật phân chia di sản theo di chúc 17
2.Phương hướng hoàn thiện quy định pháp luật về hình thức di chúc 18
C.KẾT LUẬN 20
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: