Treowe

New Member

Download Đề tài Hình thức và nội dung của hợp đồng dân sự theo qui định của pháp luật hiện hành – Nhận thức và kiến nghị miễn phí





Số lượng đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác định đối tượng của hợp đồng. Ngay bản thân khái niệm đối tượng thường được hiểu theo nghĩa “cái gì và bao nhiêu”. Trong một số hợp đồng điều khoản về số lượng tưởng như không được nhắc tới, ví dụ như hợp đồng cung cấp năng lượng điện cho người tiêu dùng, người tiêu dùng có quyền tiêu thụ lượng điện cần thiết cho riêng mình. Nhưng xét kỹ về thực chất thì không phải như vậy, vì giá thành trong hợp đồng được dự liệu trước cho từng khoảng số lượng điện năng tiêu thụ, sau đó khoản tiền điện năng thanh toán sẽ được cụ thể hóa theo chỉ số tiêu thụ thực tế. Nếu bên tiêu thụ điện dự trù sẽ tiêu thụ một lượng điện gấp nhiều lần so với mức bình quân của người tiêu dùng, để nhằm mục đích sản xuất, thì các bên sẽ ký kết với nhau hợp đồng với mục đích sử dụng khác đi và cũng với giá thành khác hẳn.
Yêu cầu về chất lượng thường do các bên thỏa thuận. Trong một số loại hợp đồng, chất lượng được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và giám sát. Ví dụ như để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng thì các mặt hàng sinh hoạt dân dụng như thực phẩm, thuốc men, đồ dùng điện, phải được đăng ký chất lượng, đảm bảo mọi yêu cầu về độ an toàn, yêu cầu vệ sinh.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

c. Về hình thức hợp đồng, Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005 quy định :
“1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hay bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hay chứng thực, phải đăng ký hay phải xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp có quy định khác.
Và tại khoản 1 Điều 124 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hay bằng hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản".
Vì hợp đồng cũng là một loại giao dịch dân sự, nên theo các quy định nêu trên có thể thấy, hình thức của hợp đồng bao gồm các loại sau: bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi cụ thể và bằng thông điệp dữ liệu (hợp đồng điện tử). Như vậy, so với quy định của Bộ luật Dân sự 1995, quy định về hình thức của hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005 được bổ sung thêm một hình thức mới: hình thức thông điệp dữ liệu.
Như vậy, hình thức của hợp đồng dân sự tương đối đa dạng tạo điều kiện cho các chủ thể ký kết thuận tiện. Đối với những hợp đồng dân sự mà pháp luật đã quy định buộc phải giao kết theo một hình thức nhất định, thì các bên phải tuân theo các hình thức đó.
Hình thức miệng:
Thông qua hình thức bằng lời nói, các bên chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng. Hình thức miệng được coi là có độ xác thực thấp nhất. Khi có tranh chấp giữa các bên về một hợp đồng đã được giao kết miệng với nhau, bất cứ bên nào cũng có thể phủ nhận tất cả những cam kết trước đây của mình. Tuy nhiên, đối với tất cả các quốc gia trên thế giới thì hình thức miệng vẫn được coi là hình thức hợp đồng có lịch sử lâu đời và được áp dụng phổ biến nhất trong các giao dịch dân sự. Trước đây điều đó được lý giải là do số lượng những người biết đọc, biết viết còn rất ít. Ngày nay, hình thức miệng vẫn giữ nguyên được vai trò to lớn của nó. Các trường hợp cơ bản phổ biến áp dụng hình thức miệng là:
Thứ nhất, hình thức miệng được áp dụng trong những trường hợp các bên tham gia giao kết hợp đồng đã có độ tin cậy lẫn nhau. Độ tin cậy giữa các chủ thể thường được xác lập thông qua các quan hệ ruột thịt, quan hệ hàng xóm láng giềng, quan hệ bạn bè, đồng nghiệp, cùng học tập … Sự tin tưởng giữa các chủ thể ở đây đóng vai trò như là một nhân tố chủ quan bổ xung thêm cho sự xác thực của hình thức miệng. Trong nhiều trường hợp do thiếu độ tin cậy nên các chủ thể không thể áp dụng được hình thức miệng.
Thứ hai, hình thức miệng được áp dụng với những hợp đồng có giá trị nhỏ. Đối với những hợp đồng có giá trị quá nhỏ ( ví dụ: mua mớ rau, bao diêm, mượn cái bút chì,…) thì các bên không có cách nào khác ngoài cách áp dụng hình thức miệng, nếu áp dụng các hình thức khác sẽ có thể tạo nên những chi phí quá lớn, mà giá trị hợp đồng quá nhỏ nên các chi phí đó làm cho việc ký kết hợp đồng trở nên vô nghĩa.
Thứ ba, hình thức miệng được áp dụng đối với những hợp đồng mà có thể được thực hiện và chấm dứt ngay sau khi giao kết. Ví dụ như đa số các hợp đồng bán lẻ đều được thực hiện dưới hình thức miệng. Sau khi thỏa thuận miệng xong về giá cả, số lượng và chất lượng …thì hai bên thực hiện ngay thỏa thuận đó ( bên bán cân đong và bàn giao hàng, bên mua nhận lấy hàng và trả tiền ). Đến đây hợp đồng coi như đã thực hiện xong và chấm dứt.
Hình thức văn bản
Các bên có thể ký kết hợp đồng dưới hình thức cùng nhau lập một văn bản viết. Hình thức hợp đồng bằng văn bản mang tính xác thực hơn so với hình thức hợp đồng miệng. Trong văn bản đó các bên ghi đầy đủ những nội dung đã thỏa thuận, cùng ký tên xác nhận vào văn bản. Văn bản hợp đồng thường được soạn thành hai hay nhiều bản gốc giông nhau, đều phải có chữ ký của các bên, mỗi bên được giữ một bản. Căn cứ vào văn bản của hợp đồng, các bên dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu của mình đối với bên kia. Các trường hợp cơ bản áp dụng hình thức văn bản này là :
+) Đối với những hợp đồng có giá trị lớn.
+) Đối với những hợp đồng mà việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ hợp đồng có thể diễn ra trong một thời gian dài không cùng lúc với việc giao kết (ví dụ : hợp đồng gia công xây dựng nhà…)
+) Khi giữa các bên chưa đật được sự tin cậy nhất định.
Đối với riêng dạng hợp đồng bằng văn bản thì Điều 401 khoản 2 Bộ luật dân sự quy định: “Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hay chứng thực, phải đăng ký hay phải xin phép thì phải tuân theo các quy định đó”. Thông qua chỉ dẫn này ta thấy rằng hợp đồng bằng văn bản được chia tiếp ra làm hai loại là : hợp đồng bằng văn bản thông thường và hợp đồng bằng văn bản có chứng nhận của công chứng Nhà nước hay chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Hợp đồng bằng văn bản có chứng nhận, chứng thực được coi là hình thức mang tính xác thực cao nhất và thường được pháp luật quy định đối với các trường hợp như đối với các hợp đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp hay với hợp đồng có đối tượng là những tài sản mà nhà nước cần quản lý, kiểm soát. Những trường hợp đó được quy định cụ thể cho từng loại hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, trong trường hợp pháp luật không có quy định thì các bên vẫn có thể thỏa thuận với nhau áp dụng hình thức văn bản có chứng nhận, chứng thực đó để giao kết hợp đồng. Tuy nhiên nếu có vi phạm về hình thức thì cũng không bị coi là vô hiệu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Hình thức hành vi cụ thể. Ví dụ như: hợp đồng tặng cho tài sản như việc bỏ tiền vào hòm công đức, như người tiêu dùng mua nước tại các máy bán nước tự động, hợp đồng được coi là ký kết khi người tiêu dùng thả tiền vào máy tự động và thực hiện một số các động tác cần thiết để nhận chai nước. Đối với hình thức này thì chỉ cần các bên thực hiện một hay một vài (không bắt buộc phải tất cả) hành vi là nghĩa vụ của hợp đồng thì hợp đồng đã được coi là giao kết.
Hình thức bằng thông điệp dữ liệu (hợp đồng điện tử): Ngày nay, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc giao kết hợp đồng dưới hình thức văn bản giấy không còn là hình thức thích hợp khi các bên có khoảng cách xa về mặt địa lý. Chủ thể ở một quốc gia này có thể ký kết hợp đồng với chủ thể của một quốc gia khác mà không phải đi đến tận nơi gặp nhau trực tiếp để thương thảo hợp đồng. Thông qua mạng Internet, các doanh nghiệp ở các địa phương khác nha...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Thiết kế máy ép thức ăn chăn nuôi dạng viên và chế tạo mô hình Khoa học kỹ thuật 0
D Phân tích phương thức đấu thầu quốc tế và đánh giá tình hình hoạt động đấu thầu quốc tế tại Việt Nam hiện nay Luận văn Kinh tế 0
D Giới thiệu chung về các hình thức trợ cấp dành cho nguời lao động trên thế giới và so sánh với các hình thức này ở việt nam Văn hóa, Xã hội 0
D CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ THEO ĐỊNH HƯỚNG NĂNG LỰC Luận văn Kinh tế 0
R Phân tích quy định của pháp luật hiện hành về hình thức khuyến mại bằng hàng mẫu. Phân biệt hai hình thức khuyến mại: hàng mẫu và tặng quà Luận văn Luật 0
C mở rộng và hoàn thiện hình thức thanh toán chuyển tiền điện từ tại Agribank Nam Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
M Tình hình thu hút và sử dụng vốn viện trợ chính thức (ODA) giai đoạn 2001-2005, kế hoạch giai đoạn 2006 - 2010 thực trạng và giải pháp Luận văn Kinh tế 0
I Tình hình hoạt động và phát triển tại Thức trạng hoạt động trong năm gần đât của công ty liên doanh bia Đông Nam Á Luận văn Kinh tế 0
P Đặc điểm sản xuất kinh doanh và tổ chức bộ máy kế toán - Hình thức sổ kế toán tại công ty CP quốc tế thương mại Thành Như Luận văn Kinh tế 0
H Đa dạng hóa các hình thức Tín dụng ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp Luận văn Kinh tế 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top