Link tải luận văn miễn phí cho ae
HỌC THUYẾT KEYNES VÀ VẤN ĐỀ CHỐNG SUY GIẢM KINH TẾ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Đinh Văn Thông
John Maynard Keynes (1883-1846) là nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh. Giáo sư Đại học
Cambridge. Chủ bút tờ tạp chí kinh tế Economic Journal. Ông là một chuyên gia về tài chính và
tiền tệ trong bộ tài chính Anh và giữ một vai trò chính trong việc hình thành mọi chủ trương,
chính sách của hội kinh tế hoàng gia Anh. Ông cũng là người có công trong việc sáng lập ra quỹ
tiền tệ quốc tế IMF.
Tác phẩm nổi tiếng của ông: Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và về tiền tệ (The genenal
theory of Employment, Interest and Money)1 được xuất bản năm 1936.Tác phẩm này xuất hiện
trong bối cảnh nền kinh tế thế giới vừa trải qua một cuộc đại khủng hoảng trầm trọng(1929 –
1933), với tác phẩm này đã làm cho ông trở nên nổi tiếng và được ví như một cuộc cách mạng
trong lịch sử tư tưởng kinh tế ở các nước phương Tây.
Trong tác phẩm đó, ông đã phê phán quan điểm của phái cổ điển, phái tân cổ điển về tự
điều tiết của cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa – cho rằng kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
là mô hình kinh tế tự động tăng trưởng, không có khủng hoảng và thất nghiệp. Đồng thời
Keynes đã nêu ra quan điểm mới về khủng hoảng, thất nghiệp và vai trò điều tiết kinh tế của
nhà nước.
Keynes quan niệm: số lượng người làm việc trong mỗi xí nghiệp, mỗi ngành cũng như
trong toàn bộ nền kinh tế sẽ tuỳ từng trường hợp vào doanh số mà các nghiệp chủ dự kiến thu được từ
việc bán sản lượng tương ứng với số lao động được sử dụng đó và họ sẽ cố gắng tối đa hoá lợi
nhuận của họ.
Khi lượng việc làm tăng lên sẽ dẫn tới tổng thu nhập thực tế của xã hội tăng lên và điều
này cũng dẫn tới tiêu dùng của xã hội tăng lên.
Nhưng khi thu nhập của dân chúng tăng lên thì đồng thời trong xã hội cũng xuất hiện
một khuynh hướng tiết kiệm trong dân chúng, điều đó có nghĩa là mức tiêu dùng nhỏ hơn so
với thu nhập, dẫn tới tổng cung lớn hơn tổng cầu. Điều này tất yếu làm cho giá cả giảm, lợi
nhuận của doanh nghiệp giảm và doanh nghiệp có xu hướng thu hẹp sản xuất, một bộ phận
lao động bị thất nghiệp. Vì vậy, để đảm bảo việc làm sẽ tuỳ từng trường hợp vào số tiền đầu tư (I), số tiền
đầu tư lại tuỳ từng trường hợp vào sự kích thích đầu tư, sự kích thích đầu tư lại tuỳ từng trường hợp vào hiệu quả
biên của vốn. Do đó, việc khuyến khích đầu tư có vai trò quan trọng trong việc giải quyết việc
làm trong xã hội và qua đó để phát triển kinh tế.
Như chúng ta đã biết, trường phái cổ điển cho rằng: kinh tế thị trường tự do cạnh tranh
tự nó sẽ xác lập nên những trạng thái cân bằng và tự nó sẽ đạt tới sự phân bổ tối ưu về tài
nguyên và các nguồn lực, xã hội sẽ có đầy đủ công ăn việc làm, nếu có thất nghiệp chẳng qua
là do có không ăn khớp nhất thời và do tự nguyện. Như vậy, theo họ mô hình kinh tế thị
trường tự do cạnh tranh là tối ưu.
Nhưng thực tế vận động của nền kinh tế thị trường tư bản đã bác bỏ điều đó. Các cuộc
khủng hoảng kinh tế liên tiếp diễn ra, tình trạng thất nghiệp diễn ra phổ biến và tất cả những
điều đó luôn thường trực đe doạ chủ nghĩa tư bản. Quan điểm của Keynes là đối lập với quan
điểm của phái cổ điển và cho rằng: để chống đỡ khủng hoảng và thất nghiệp phải có sự can
thiệp của nhà nước, qua đó nâng cao tổng cầu trong nền kinh tế, kích thích tiêu dùng, khuyến
khích doanh nhân đầu tư và kinh doanh.
Mấu chốt để hiểu được sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế theo học thuyết
Keynes là nguyên lý về “cầu thực tế” và “cầu có hiệu quả” trong nền kinh tế.
Hàm số cầu tổng hợp theo học thuyết Keynes: D = f(N).
Tức là tổng doanh số nhận được ( D ) khi sử dụng (N) số lượng lao động.
Đồng thời, theo Keynes: D = D1 + D2
D1: là số tiền mà cộng đồng dành cho tiêu dùng (C)
D2: là số tiền mà cộng đồng dành cho đầu tư (I)
Như vậy, tổng cầu xã hội bao gồm có cầu tiêu dùng và cầu đầu tư. Nhưng đồng thời, theo
Keynes, sự xuất hiện của khuynh hướng tiết kiệm dẫn tới sự giảm sút của tổng cầu. Chính sự
giảm sút của tổng cầu là nguyên nhân gây ra khủng hoảng kinh tế, doanh nghiệp phải thu hẹp
sản xuất và công nhân bị thất nghiệp. Vì vậy, cần thiết phải có sự can thiệp của nhà nước
nhằm nâng cao tổng cầu trong nền kinh tế, hay như hiện nay chúng ta gọi là phải kích cầu tiêu
dùng và cầu đầu tư. Trong thực tế, ở các nước có nền kinh tế thị trường đều có sự vận dụng
học thuyết Keynes ở những mức độ khác nhau, qua đó để điều tiết và kích thích kinh tế.
Trong học thuyết của Keynes, ông đã nhấn mạnh tới các công cụ và chính sách kinh tế mà nhà
nước có thể sử dụng để tác động tới nền kinh tế nhằm nâng cao tổng cầu, bao gồm các công cụ
và chính sách kinh tế như: chính sách khuyến khích đầu tư, công cụ tài chính và chính sách tài
khoá, công cụ tiền tệ cũng như chính sách tiền tệ và lãi suất của chính phủ.
Đối với chính sách khuyến khích đầu tư, học thuyết Keynes chủ trương sử dụng ngân
sách để kích thích đầu tư trong nền kinh tế (bao gồm cả đầu tư tư nhân và đầu tư nhà nước),
qua đó để kích thích kinh tế phát triển. Nhà nước nên thực hiện các chương trình đầu tư quy
mô lớn để kích thích thị trường thông qua các đơn đặt hàng của chính phủ, thông qua các dự
án đầu tư, thông qua hệ thống thu mua – nhờ đó để kích thích đầu tư tư nhân. Đồng thời, qua
đó theo cơ chế số nhân (một khái niệm hết sức nổi tiếng của Keynes), nó sẽ có tác dụng làm
khuyếch đại thu nhập quốc dân. Khái niệm về số nhân đầu tư của Keynes: đó là mối quan hệ
tỷ lệ giữa sự gia tăng thu nhập so với gia tăng đầu tư, nó cho chúng ta biết khi có một sự gia
tăng về đầu tư tổng hợp thì thu nhập sẽ gia tăng lên bao nhiêu lần, ta có:
k = R /I
(k: là số nhân đầu tư, R: là gia tăng thu nhập, I: là gia tăng đầu tư).
Đối với công cụ tài chính và chính sách tài khoá của chính phủ. Theo quan điểm của
Keynes, tài chính là một công cụ hữu hiệu trong tay nhà nước để tác động tới nền kinh tế. Ví
dụ: giả sử nền kinh tế đang lâm vào khủng hoảng, suy thoái và thất nghiệp, các doanh nghiệp
thu hẹp sản xuất, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu, điều đó làm giảm sút tổng cầu. Vì vậy, để
nâng cao tổng cầu chính phủ phải tăng chi tiêu, hay giảm thuế cho doanh nghiệp, qua đó
nâng cao mức tiêu dùng trong nền kinh tế và do hiệu lực của cơ chế số nhân sẽ khiến cho sản
lượng tăng và việc làm trong xã hội tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế đang trong trạng thái
phát triển “quá nóng”, lạm phát tăng – chính phủ có thể tác động bằng cách thắt chặt chi tiêu
và tăng thuế. Nhờ đó mức chi tiêu giảm, sản lượng giảm và lạm phát được kiềm chế.
Đối với công cụ tiền tệ và chính sách tiền tệ của chính phủ, trong học thuyết của mình,
Keynes đã đánh giá cao vai trò của công cụ chính sách tiền tệ và lãi suất. Đồng thời trong thực
tế, các chính phủ đều đã có sự vận dụng công cụ và chính sách tiền tệ để tác động tới nền kinh
tế. Chính sách tiền tệ được thể hiện tập trung thông qua việc ngân hàng trung ương thay đổi
mức cung tiền và tỷ lệ lãi suất, nhờ đó đã tác động vào lượng tiền mặt và lãi suất trên thị
trường, đồng thời tác động tới tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế, nâng cao “cầu có hiệu
quả” nhằm chống khủng hoảng và suy thoái kinh tế.
Như vậy, học thuyết Keynes đã chỉ ra những chính sách và công cụ kinh tế mà nhà nước
có thể dùng nó can thiệp và tác động tới nền kinh tế. Nhưng rõ ràng toa thuốc quá liều cũng
có thể gây ra mặt trái của nó. Do đó, có thể phát sinh mặt trái của sự can thiệp quá mức từ
phía nhà nước.
Ở đây chúng ta có thể nêu ra một số tiêu cực nếu như áp dụng thái quá học thuyết
Keynes:
- Về chính sách giảm giá để kích cầu nền kinh tế: sự giảm giá rõ ràng có tác động kích
thích tiêu dùng nâng cao tổng cầu, giải phóng một phần tư bản. Nhưng mặt khác, mức giảm
giá trong nền kinh tế cũng có thể gây hại cho nền kinh tế. Ví dụ như: sự giảm giá sẽ tác động
lên số nợ kinh doanh của các doanh nghiệp, tạo thành gánh nặng về tài chính; sự giảm giá
cũng làm giảm sút lợi nhuận của các doanh nghiệp, mà lợi nhuận lại là động lực của kinh
doanh. Do đó không khuyến khích đầu tư và gia tăng tổng cầu.
- Về chính sách tài khoá của chính phủ: trong học thuyết của mình Keynes đã lập luận rằng,
cần thiết phải có vai trò nhà nước trong điều tiết kinh tế để chống đỡ khủng hoảng và thất
nghiệp. Nhà nước nên sử dụng quyền hạn đó để đánh thuế và gia tăng chi tiêu, qua đó tác động
lên chu kỳ kinh doanh. Chi tiêu của chính phủ là khoản đầu tư công cộng, bơm thêm tiền vào
dòng chảy thu nhập và do đó để nâng cao tổng cầu. Những khoản chi tiêu đó là lấy từ tiền đánh
thuế trong nền kinh tế (như vậy, vô hình chung lại làm giảm tiêu dùng và giảm lợi nhuận của
doanh nghiệp). Thu nhập của chính phủ cũng được lấy từ việc bán trái phiếu chính phủ và bằng
những biện pháp vay nợ khác… Như vậy, rất có thể làm thâm hụt ngân sách, gánh nặng nợ nần
của nhà nước ngày một gia tăng và những phát sinh tiêu cực thứ phát khác lại tác động lên nền
kinh tế làm cản trở các điều kiện sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy rất có thể phát sinh các vấn đề sau:
+ Để kích cầu thì phải giảm thuế, nhưng giảm thuế lại làm thâm hụt ngân sách, giảm chi
tiêu của chính phủ.
+ Nếu tăng chi tiêu chính phủ thì rất có thể hiệu quả biên của vốn bị giảm sút. Đồng thời
gây ra lạm phát và tăng gánh nặng nợ nần cho ngân sách.
- Về chính sách tiền tệ của chính phủ: chính sách tiền tệ của chính phủ thể hiện rõ nhất
thông qua các chính sách cung ứng tiền tệ và các chính sách về lãi suất. Cả hai công cụ này
đều hết sức hữu hiệu trong tác động và điều tiết kinh tế, nhưng đồng thời cũng có nguy cơ
tiềm ẩn mặt trái của nó.
+ Nếu lượng tiền mặt phát hành quá mức thì sẽ đẩy mức giá cả lên cao và có nguy cơ gây
ra lạm phát.
+ Nếu thực hiện chính sách giảm lãi suất để khuyến khích đầu tư nhằm nâng cao tổng
cầu, thì đồng thời làm gia tăng mức cung ứng tiền tệ và do đó cũng có nguy cơ gây ra lạm
phát.
Về khả năng vận dụng học thuyết Keynes hiện nay ở nước ta nhằm chống suy giảm kinh
tế:
*Trước hết cần khẳng định quan điểm về mô hình phát triển kinh tế ở nước ta đã được
xác định qua các kỳ đại hội của Đảng CSVN là “phát triển kinh tế hàng hóa gồm nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng XHCN.” Như vậy, vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước ta là hết sức quan
trọng, qua đó để đảm bảo tính hiệu quả của thị trường và để đảm bảo tính định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở vận dụng học thuyết Keynes và những lý luận kinh tế mới nhất về kinh tế thị
trường hiện đại ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng: Nhà nước cần thiết phải tích cực
và chủ động tác động vào nền kinh tế, qua đó để ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy kinh tế tăng
trưởng và phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính
thế giới đang tác động tiêu cực tới nước ta thì vai trò đó càng trở nên cấp thiết.
Các công cụ và chính sách kinh tế chủ yếu mà nhà nước xã hội chủ nghĩa hoàn toàn có thể
sử dụng và tác động vào nền kinh tế là:
- Xây dựng bộ phận kinh tế nhà nước vững mạnh và hoạt động có hiệu quả.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế (bộ phận kinh tế) dựa trên sở hữu nhà nước về
vốn, các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên và về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Bao gồm các
doanh nghiệp nhà nước; các tài sản thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ, rừng, biển
và các tài nguyên khác; các nguồn lực thuộc sở hữu nhà nước khác như: ngân sách, các quỹ dự
trữ, hệ thống ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, các công trình thuộc về kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội và phần vốn góp của nhà nước vào các loại hình kinh doanh khác nhau.
Như vậy, kinh tế nhà nước bao gồm nhiều bộ phận hợp thành, trong đó doanh nghiệp
nhà nước là một trong những bộ phận nòng cốt, vì đây là bộ phận chiếm giữ một phần lớn tài
sản của nền kinh tế và tạo ra khoảng trên 1/3 tổng sản phẩm xã hội (GDP) và là một lực lượng
vật chất quan trọng để nhà nước tác động tới nền kinh tế quốc dân. Đồng thời theo quan điểm
của Đảng ta, trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa thì kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường phải được thể hiện trên hai mặt chủ yếu sau: thứ
nhất, kinh tế nhà nước phải nắm giữ và chi phối các vị trí, các lĩnh vực then chốt của nền kinh
tế quốc dân – đó là hệ thống tài chính, ngân hàng và bảo hiểm, các cơ sở sản xuất và kinh
doanh dịch vụ quan trọng trong các ngành của nền kinh tế quốc dân, những vị trí và lĩnh vực
trọng yếu thuộc về kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội… Qua đó để có thể đảm bảo các cân đối lớn
của nền kinh tế, tác động tới tổng cung và tổng cầu, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Thứ hai,
bộ phận kinh tế nhà nước phải chuyển mạnh sang cơ chế kinh tế thị trường, đảm bảo thực
hiện kinh doanh với mục tiêu năng suất, chất lượng và hiệu quả. Có như vậy mới lôi cuốn và
chi phối được các thành phần kinh tế khác, thúc đẩy quá trình tăng trưởng nhanh và bền
vững.
Để phát huy được vai trò chủ đạo trên, các doanh nghiệp nhà nước hiện nay ở nước ta đang
trong quá trình đổi mới và sắp xếp lại, thông qua một loạt các biện pháp như: giải thể, sáp nhập
các xí nghiệp làm ăn thua lỗ và kém hiệu quả; tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; sắp
xếp lại các tổng công ty theo mô hình công ty mẹ công ty con, tiến tới hình thành các tập đoàn
kinh tế mạnh.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
HỌC THUYẾT KEYNES VÀ VẤN ĐỀ CHỐNG SUY GIẢM KINH TẾ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Đinh Văn Thông
John Maynard Keynes (1883-1846) là nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh. Giáo sư Đại học
Cambridge. Chủ bút tờ tạp chí kinh tế Economic Journal. Ông là một chuyên gia về tài chính và
tiền tệ trong bộ tài chính Anh và giữ một vai trò chính trong việc hình thành mọi chủ trương,
chính sách của hội kinh tế hoàng gia Anh. Ông cũng là người có công trong việc sáng lập ra quỹ
tiền tệ quốc tế IMF.
Tác phẩm nổi tiếng của ông: Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và về tiền tệ (The genenal
theory of Employment, Interest and Money)1 được xuất bản năm 1936.Tác phẩm này xuất hiện
trong bối cảnh nền kinh tế thế giới vừa trải qua một cuộc đại khủng hoảng trầm trọng(1929 –
1933), với tác phẩm này đã làm cho ông trở nên nổi tiếng và được ví như một cuộc cách mạng
trong lịch sử tư tưởng kinh tế ở các nước phương Tây.
Trong tác phẩm đó, ông đã phê phán quan điểm của phái cổ điển, phái tân cổ điển về tự
điều tiết của cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa – cho rằng kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
là mô hình kinh tế tự động tăng trưởng, không có khủng hoảng và thất nghiệp. Đồng thời
Keynes đã nêu ra quan điểm mới về khủng hoảng, thất nghiệp và vai trò điều tiết kinh tế của
nhà nước.
Keynes quan niệm: số lượng người làm việc trong mỗi xí nghiệp, mỗi ngành cũng như
trong toàn bộ nền kinh tế sẽ tuỳ từng trường hợp vào doanh số mà các nghiệp chủ dự kiến thu được từ
việc bán sản lượng tương ứng với số lao động được sử dụng đó và họ sẽ cố gắng tối đa hoá lợi
nhuận của họ.
Khi lượng việc làm tăng lên sẽ dẫn tới tổng thu nhập thực tế của xã hội tăng lên và điều
này cũng dẫn tới tiêu dùng của xã hội tăng lên.
Nhưng khi thu nhập của dân chúng tăng lên thì đồng thời trong xã hội cũng xuất hiện
một khuynh hướng tiết kiệm trong dân chúng, điều đó có nghĩa là mức tiêu dùng nhỏ hơn so
với thu nhập, dẫn tới tổng cung lớn hơn tổng cầu. Điều này tất yếu làm cho giá cả giảm, lợi
nhuận của doanh nghiệp giảm và doanh nghiệp có xu hướng thu hẹp sản xuất, một bộ phận
lao động bị thất nghiệp. Vì vậy, để đảm bảo việc làm sẽ tuỳ từng trường hợp vào số tiền đầu tư (I), số tiền
đầu tư lại tuỳ từng trường hợp vào sự kích thích đầu tư, sự kích thích đầu tư lại tuỳ từng trường hợp vào hiệu quả
biên của vốn. Do đó, việc khuyến khích đầu tư có vai trò quan trọng trong việc giải quyết việc
làm trong xã hội và qua đó để phát triển kinh tế.
Như chúng ta đã biết, trường phái cổ điển cho rằng: kinh tế thị trường tự do cạnh tranh
tự nó sẽ xác lập nên những trạng thái cân bằng và tự nó sẽ đạt tới sự phân bổ tối ưu về tài
nguyên và các nguồn lực, xã hội sẽ có đầy đủ công ăn việc làm, nếu có thất nghiệp chẳng qua
là do có không ăn khớp nhất thời và do tự nguyện. Như vậy, theo họ mô hình kinh tế thị
trường tự do cạnh tranh là tối ưu.
Nhưng thực tế vận động của nền kinh tế thị trường tư bản đã bác bỏ điều đó. Các cuộc
khủng hoảng kinh tế liên tiếp diễn ra, tình trạng thất nghiệp diễn ra phổ biến và tất cả những
điều đó luôn thường trực đe doạ chủ nghĩa tư bản. Quan điểm của Keynes là đối lập với quan
điểm của phái cổ điển và cho rằng: để chống đỡ khủng hoảng và thất nghiệp phải có sự can
thiệp của nhà nước, qua đó nâng cao tổng cầu trong nền kinh tế, kích thích tiêu dùng, khuyến
khích doanh nhân đầu tư và kinh doanh.
Mấu chốt để hiểu được sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế theo học thuyết
Keynes là nguyên lý về “cầu thực tế” và “cầu có hiệu quả” trong nền kinh tế.
Hàm số cầu tổng hợp theo học thuyết Keynes: D = f(N).
Tức là tổng doanh số nhận được ( D ) khi sử dụng (N) số lượng lao động.
Đồng thời, theo Keynes: D = D1 + D2
D1: là số tiền mà cộng đồng dành cho tiêu dùng (C)
D2: là số tiền mà cộng đồng dành cho đầu tư (I)
Như vậy, tổng cầu xã hội bao gồm có cầu tiêu dùng và cầu đầu tư. Nhưng đồng thời, theo
Keynes, sự xuất hiện của khuynh hướng tiết kiệm dẫn tới sự giảm sút của tổng cầu. Chính sự
giảm sút của tổng cầu là nguyên nhân gây ra khủng hoảng kinh tế, doanh nghiệp phải thu hẹp
sản xuất và công nhân bị thất nghiệp. Vì vậy, cần thiết phải có sự can thiệp của nhà nước
nhằm nâng cao tổng cầu trong nền kinh tế, hay như hiện nay chúng ta gọi là phải kích cầu tiêu
dùng và cầu đầu tư. Trong thực tế, ở các nước có nền kinh tế thị trường đều có sự vận dụng
học thuyết Keynes ở những mức độ khác nhau, qua đó để điều tiết và kích thích kinh tế.
Trong học thuyết của Keynes, ông đã nhấn mạnh tới các công cụ và chính sách kinh tế mà nhà
nước có thể sử dụng để tác động tới nền kinh tế nhằm nâng cao tổng cầu, bao gồm các công cụ
và chính sách kinh tế như: chính sách khuyến khích đầu tư, công cụ tài chính và chính sách tài
khoá, công cụ tiền tệ cũng như chính sách tiền tệ và lãi suất của chính phủ.
Đối với chính sách khuyến khích đầu tư, học thuyết Keynes chủ trương sử dụng ngân
sách để kích thích đầu tư trong nền kinh tế (bao gồm cả đầu tư tư nhân và đầu tư nhà nước),
qua đó để kích thích kinh tế phát triển. Nhà nước nên thực hiện các chương trình đầu tư quy
mô lớn để kích thích thị trường thông qua các đơn đặt hàng của chính phủ, thông qua các dự
án đầu tư, thông qua hệ thống thu mua – nhờ đó để kích thích đầu tư tư nhân. Đồng thời, qua
đó theo cơ chế số nhân (một khái niệm hết sức nổi tiếng của Keynes), nó sẽ có tác dụng làm
khuyếch đại thu nhập quốc dân. Khái niệm về số nhân đầu tư của Keynes: đó là mối quan hệ
tỷ lệ giữa sự gia tăng thu nhập so với gia tăng đầu tư, nó cho chúng ta biết khi có một sự gia
tăng về đầu tư tổng hợp thì thu nhập sẽ gia tăng lên bao nhiêu lần, ta có:
k = R /I
(k: là số nhân đầu tư, R: là gia tăng thu nhập, I: là gia tăng đầu tư).
Đối với công cụ tài chính và chính sách tài khoá của chính phủ. Theo quan điểm của
Keynes, tài chính là một công cụ hữu hiệu trong tay nhà nước để tác động tới nền kinh tế. Ví
dụ: giả sử nền kinh tế đang lâm vào khủng hoảng, suy thoái và thất nghiệp, các doanh nghiệp
thu hẹp sản xuất, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu, điều đó làm giảm sút tổng cầu. Vì vậy, để
nâng cao tổng cầu chính phủ phải tăng chi tiêu, hay giảm thuế cho doanh nghiệp, qua đó
nâng cao mức tiêu dùng trong nền kinh tế và do hiệu lực của cơ chế số nhân sẽ khiến cho sản
lượng tăng và việc làm trong xã hội tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế đang trong trạng thái
phát triển “quá nóng”, lạm phát tăng – chính phủ có thể tác động bằng cách thắt chặt chi tiêu
và tăng thuế. Nhờ đó mức chi tiêu giảm, sản lượng giảm và lạm phát được kiềm chế.
Đối với công cụ tiền tệ và chính sách tiền tệ của chính phủ, trong học thuyết của mình,
Keynes đã đánh giá cao vai trò của công cụ chính sách tiền tệ và lãi suất. Đồng thời trong thực
tế, các chính phủ đều đã có sự vận dụng công cụ và chính sách tiền tệ để tác động tới nền kinh
tế. Chính sách tiền tệ được thể hiện tập trung thông qua việc ngân hàng trung ương thay đổi
mức cung tiền và tỷ lệ lãi suất, nhờ đó đã tác động vào lượng tiền mặt và lãi suất trên thị
trường, đồng thời tác động tới tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế, nâng cao “cầu có hiệu
quả” nhằm chống khủng hoảng và suy thoái kinh tế.
Như vậy, học thuyết Keynes đã chỉ ra những chính sách và công cụ kinh tế mà nhà nước
có thể dùng nó can thiệp và tác động tới nền kinh tế. Nhưng rõ ràng toa thuốc quá liều cũng
có thể gây ra mặt trái của nó. Do đó, có thể phát sinh mặt trái của sự can thiệp quá mức từ
phía nhà nước.
Ở đây chúng ta có thể nêu ra một số tiêu cực nếu như áp dụng thái quá học thuyết
Keynes:
- Về chính sách giảm giá để kích cầu nền kinh tế: sự giảm giá rõ ràng có tác động kích
thích tiêu dùng nâng cao tổng cầu, giải phóng một phần tư bản. Nhưng mặt khác, mức giảm
giá trong nền kinh tế cũng có thể gây hại cho nền kinh tế. Ví dụ như: sự giảm giá sẽ tác động
lên số nợ kinh doanh của các doanh nghiệp, tạo thành gánh nặng về tài chính; sự giảm giá
cũng làm giảm sút lợi nhuận của các doanh nghiệp, mà lợi nhuận lại là động lực của kinh
doanh. Do đó không khuyến khích đầu tư và gia tăng tổng cầu.
- Về chính sách tài khoá của chính phủ: trong học thuyết của mình Keynes đã lập luận rằng,
cần thiết phải có vai trò nhà nước trong điều tiết kinh tế để chống đỡ khủng hoảng và thất
nghiệp. Nhà nước nên sử dụng quyền hạn đó để đánh thuế và gia tăng chi tiêu, qua đó tác động
lên chu kỳ kinh doanh. Chi tiêu của chính phủ là khoản đầu tư công cộng, bơm thêm tiền vào
dòng chảy thu nhập và do đó để nâng cao tổng cầu. Những khoản chi tiêu đó là lấy từ tiền đánh
thuế trong nền kinh tế (như vậy, vô hình chung lại làm giảm tiêu dùng và giảm lợi nhuận của
doanh nghiệp). Thu nhập của chính phủ cũng được lấy từ việc bán trái phiếu chính phủ và bằng
những biện pháp vay nợ khác… Như vậy, rất có thể làm thâm hụt ngân sách, gánh nặng nợ nần
của nhà nước ngày một gia tăng và những phát sinh tiêu cực thứ phát khác lại tác động lên nền
kinh tế làm cản trở các điều kiện sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy rất có thể phát sinh các vấn đề sau:
+ Để kích cầu thì phải giảm thuế, nhưng giảm thuế lại làm thâm hụt ngân sách, giảm chi
tiêu của chính phủ.
+ Nếu tăng chi tiêu chính phủ thì rất có thể hiệu quả biên của vốn bị giảm sút. Đồng thời
gây ra lạm phát và tăng gánh nặng nợ nần cho ngân sách.
- Về chính sách tiền tệ của chính phủ: chính sách tiền tệ của chính phủ thể hiện rõ nhất
thông qua các chính sách cung ứng tiền tệ và các chính sách về lãi suất. Cả hai công cụ này
đều hết sức hữu hiệu trong tác động và điều tiết kinh tế, nhưng đồng thời cũng có nguy cơ
tiềm ẩn mặt trái của nó.
+ Nếu lượng tiền mặt phát hành quá mức thì sẽ đẩy mức giá cả lên cao và có nguy cơ gây
ra lạm phát.
+ Nếu thực hiện chính sách giảm lãi suất để khuyến khích đầu tư nhằm nâng cao tổng
cầu, thì đồng thời làm gia tăng mức cung ứng tiền tệ và do đó cũng có nguy cơ gây ra lạm
phát.
Về khả năng vận dụng học thuyết Keynes hiện nay ở nước ta nhằm chống suy giảm kinh
tế:
*Trước hết cần khẳng định quan điểm về mô hình phát triển kinh tế ở nước ta đã được
xác định qua các kỳ đại hội của Đảng CSVN là “phát triển kinh tế hàng hóa gồm nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng XHCN.” Như vậy, vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước ta là hết sức quan
trọng, qua đó để đảm bảo tính hiệu quả của thị trường và để đảm bảo tính định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở vận dụng học thuyết Keynes và những lý luận kinh tế mới nhất về kinh tế thị
trường hiện đại ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng: Nhà nước cần thiết phải tích cực
và chủ động tác động vào nền kinh tế, qua đó để ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy kinh tế tăng
trưởng và phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính
thế giới đang tác động tiêu cực tới nước ta thì vai trò đó càng trở nên cấp thiết.
Các công cụ và chính sách kinh tế chủ yếu mà nhà nước xã hội chủ nghĩa hoàn toàn có thể
sử dụng và tác động vào nền kinh tế là:
- Xây dựng bộ phận kinh tế nhà nước vững mạnh và hoạt động có hiệu quả.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế (bộ phận kinh tế) dựa trên sở hữu nhà nước về
vốn, các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên và về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Bao gồm các
doanh nghiệp nhà nước; các tài sản thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ, rừng, biển
và các tài nguyên khác; các nguồn lực thuộc sở hữu nhà nước khác như: ngân sách, các quỹ dự
trữ, hệ thống ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, các công trình thuộc về kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội và phần vốn góp của nhà nước vào các loại hình kinh doanh khác nhau.
Như vậy, kinh tế nhà nước bao gồm nhiều bộ phận hợp thành, trong đó doanh nghiệp
nhà nước là một trong những bộ phận nòng cốt, vì đây là bộ phận chiếm giữ một phần lớn tài
sản của nền kinh tế và tạo ra khoảng trên 1/3 tổng sản phẩm xã hội (GDP) và là một lực lượng
vật chất quan trọng để nhà nước tác động tới nền kinh tế quốc dân. Đồng thời theo quan điểm
của Đảng ta, trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa thì kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường phải được thể hiện trên hai mặt chủ yếu sau: thứ
nhất, kinh tế nhà nước phải nắm giữ và chi phối các vị trí, các lĩnh vực then chốt của nền kinh
tế quốc dân – đó là hệ thống tài chính, ngân hàng và bảo hiểm, các cơ sở sản xuất và kinh
doanh dịch vụ quan trọng trong các ngành của nền kinh tế quốc dân, những vị trí và lĩnh vực
trọng yếu thuộc về kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội… Qua đó để có thể đảm bảo các cân đối lớn
của nền kinh tế, tác động tới tổng cung và tổng cầu, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Thứ hai,
bộ phận kinh tế nhà nước phải chuyển mạnh sang cơ chế kinh tế thị trường, đảm bảo thực
hiện kinh doanh với mục tiêu năng suất, chất lượng và hiệu quả. Có như vậy mới lôi cuốn và
chi phối được các thành phần kinh tế khác, thúc đẩy quá trình tăng trưởng nhanh và bền
vững.
Để phát huy được vai trò chủ đạo trên, các doanh nghiệp nhà nước hiện nay ở nước ta đang
trong quá trình đổi mới và sắp xếp lại, thông qua một loạt các biện pháp như: giải thể, sáp nhập
các xí nghiệp làm ăn thua lỗ và kém hiệu quả; tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; sắp
xếp lại các tổng công ty theo mô hình công ty mẹ công ty con, tiến tới hình thành các tập đoàn
kinh tế mạnh.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: tiểu luận học thuyết Keynes và những vấn đề kích cầu nhằm chống suy giảm kinh tế ở nước ta, vận dụng trường phái keynes mới ở việt nam hiện nay, học thuyết trường phái Keynes mới về tiêu dùng, lợi tức, chu kì kinh doanh, số nhân đầu tư, chính sách tài chính và kế hoạch hoá của nhà nước, quan điểm phê phán mô hình kinh tế của Việt Nam hiện nay, áp dụng học thuyết Keynes vào Việt Nam Hiện nay, Lý thuyết lãi suất tư bản cho vay của J.Keynes. Sự vận dụng lý thuyết này trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay.