thienan2672000
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người với những công cụ bằng đồng, đá cho đến những thành tựu khoa học kỹ thuật ngày nay là cả một quá trình phấn đấu, tìm tòi phát triển không ngừng của mỗi con người trong xã hội. Các Mác đã nói “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”.1, tr.358 Quả thực như vậy, vì hoạt động con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp của nó, còn hoạt động con người gắn liền với xã hội, phục vụ cho xã hội. Nhưng cũng phải nhận thấy rằng để sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên, con người phải lao động để duy trì cuộc sống, phát triển xã hội và vì vậy con người chính là lực lượng sản xuất chủ yếu, không có con người thì không có xã hội loài người.
Thực tế, chúng ta đều có thể nhận thấy là khi lao động sản xuất con người luôn luôn phải đối mặt với tai nạn, rủi ro, bệnh tật,… đe doạ đến cuộc sống, tính mạng của con người. Để khắc phục được tình trạng đó, có rất nhiều biện pháp đề phòng, hạn chế tai nạn rủi ro xảy ra, nhưng đó là chưa đủ bởi vị trí và tầm quan trọng của con người nói riêng và xã hội loài người nói chung thì cần có những biện pháp khác nữa để khắc phục hậu quả đó. Vì vậy, bảo hiểm con người đã ra đời. Bảo hiểm con người giúp mỗi người khi tham gia ổn định cuộc sống, khắc phục khó khăn, tạo ra chỗ dựa tinh thần để họ an tâm học tập, lao động sản xuất. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2000-2010, Đảng và nhà nước ta đã xác định “ tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị trường bảo hiểm trong nước mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, kể cả việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài”.2 Bảo hiểm nói chung, bảo hiểm con người nói riêng đang được sự quan tâm của Đảng, nhà nước và của toàn xã hội.
Đối với nước ta hiện nay là một nước đang phát triển, vừa là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với việc các nước tăng cường hợp tác thì việc phát triển kinh tế để hội nhập là tất yếu và vì vậy, vấn đề bảo hiểm con người càng được quan tâm hơn bao giờ hết.
Chính vì những nguyên nhân trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Hợp đồng bảo hiểm con người những vấn đề lý luận và thực tiễn”, mục tiêu của đề tài nhằm khai thác được những vấn đề mọi người quan tâm, để thấy được vai trò, tầm quan trọng của bảo hiểm con người và đặc biệt là tăng thêm sự hiểu biết của bản thân trong lĩnh vực này.
2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu hợp đồng bảo hiểm con người, trên cơ sở xem xét các quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật dân sự, và các văn bản có liên quan. Trên cơ sở đó thấy được ưu điểm, nhược điểm của các quy định để đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm con người nói riêng.
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để hoàn thành tốt đề tài, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra tác giả còn sử dụng phương pháp: phân tích, so sánh, tổng hợp,…
4. Tình hình thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài
Về vấn đề bảo hiểm con người đã có nhiều công trình đề cập đến như giáo trình “Bảo hiểm” của trường Đại học Kinh Té Quốc Dân, cuốn “Bảo hiểm nhân thọ những vấn đề lý luận và thực tiễn” của thạc sỹ Trần Vũ Hải. Bên cạnh đó còn có rất nhiều các bài viết về bảo hiểm con người trên các sách, báo, tạp chí… Tuy nhiên những công trình nghiên cứu đó chỉ đề cập đến những vấn đề lý luận của bảo hiểm con người hay đi sâu nghiên cứu bảo hiểm nhân thọ (lĩnh vực chủ yếu của bảo hiểm con người). Qua đề tài này tác giả muốn trình bày và đi sâu nghiên cứu bảo hiểm con người trên cả hai phương điện đó là lý luận và thực tiễn.
5. Cơ cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khoá luận còn có phần nội dung được cơ cấu thành ba chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hợp đồng bảo hiểm con người
Chương II: Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người
Chương III: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người.
Với ý nghĩa là một đề tài khoa học khoá luận đòi hỏi nhiều kiến thức và kinh nghiệm thực tế. Là sinh viên lần đầu tiếp xúc với đề tài khoa học nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự thông cảm và những ý kiến đóng góp, chỉ bảo của thầy cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
BẢO HIỂM CON NGƯỜI
1. Một vài nét khái quát cơ bản về lĩnh vực bảo hiểm con người
1.1. Các nước trên thế giới
Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng, bảo hiểm con người ra đời do nhu cầu khách quan của đời sống kinh tế xã hội đòi hỏi. Đó là nhu cầu được bảo vệ, được giúp đỡ, được chia sẻ hoạn nạn rủi ro khi tổn thất xảy ra. Trở lại với thời lịch sử xa xưa khi loài người sống bằng nghề săn bắt, hái lượm; ngay lúc đó, họ đã biết cách dự trữ những con vật săn bắt được. Đến một giai đoạn phát triển khá hơn, con người biết chăn nuôi trồng trọt, nhưng sản xuất nông nghiệp rất bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên và lúc đó nhà nông họ đã biết dự trữ lương thực khi mất mùa.
Quả thật, những hành động dự trữ những con vật rồi cả lương thực khi mất mùa nó không mang tính đảm bảo chắc chắn cho cuộc sống nhưng nó phần nào đã thể hiện được ý thức được bảo vệ của con người. Và đây cũng là hình thức sơ khai của bảo hiểm.
Thuật ngữ “Bảo hiểm con người” trong hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) con người được ghi nhận trong Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (KDBH) của Việt Nam (với hình thức bảo hiểm nhân thọ là chủ yếu). Trên thế giới, mỗi nước có thể có các cách gọi khác nhau cho lĩnh vực này và các nước thường đề cập đến là bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy, đối với việc nghiên cứu hình thành và phát triển của bảo hiểm con người trên thế giới, tác giả xin trình bày sự hình thành và phát triển của bảo hiểm nhân thọ.
Nếu như trong thời kỳ sơ khai, vấn đề con người quan tâm là nhu cầu ăn, ở, mặc thì ngày nay khi nhu cầu đó đã được đáp ứng đầy đủ thì những nhu cầu khác xa hơn, cao hơn trong đó có nhu cầu chăm lo cho tương lai cũng đòi hỏi phải đáp ứng. Bảo hiểm nhân thọ ra đời là đáp ứng nhu cầu đó. Chúng ta nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển vảo hiểm nhân thọ ở Anh, Mỹ là hai nước có ngành bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển nhất thế giới.
Ở Anh:
Sau cách mạng Ánh sáng 1688 Châu Âu chỉ có vương quốc Anh công nhận tính pháp lý của bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy mà trong suốt ba thập kỷ sau cách mạng Ánh sáng ở Anh dịch vụ này phát triển mạnh mẽ. Công ty bảo hiểm nhân thọ ra đời đầu tiên ở Anh (1762). Trong suốt quá trình công nghiệp hoá, dịch vụ bảo hiểm nhân thọ có rất nhiều bước phát triển. Năm 1879 chính phủ Anh thông qua “đạo luật bồi thường cho người lao động”. Đạo luật này buộc các công ty phải đóng bảo hiểm tai nạn lao động cho nhân viên. Trong thế kỷ 19 người ta đã lập ra rất nhiều hội đoàn có trách nhiệm bảo hiểm nhân mạng và sức khoẻ cho hội viên. Bên cạnh đó cũng có một số hội kín chỉ cung cấp dịch vụ bảo hiểm lệ phí thấp cho những ai là hội viên của họ. Ngày nay các hội kín này vẫn tiếp tục bảo hiểm cho hội viên, điều này cũng diễn ra tương tự ở hầu hết các tổ chức của người lao động. Có nhiều chủ sử dụng lao động còn lo luôn một lúc nhiều HĐBH nhân thọ và sức khoẻ cho nhân viên. Các hợp đồng này không chỉ đơn thuần bảo hiểm nhân thọ mà còn đảm bảo cho nhân viên có cuộc sống ổn định khi họ bị bệnh, tai nạn hay về hưu. Chính các hình thức này là tiền thân của loại hình bảo hiểm con người ngày nay. Do có một chiều dài lịch sử phát triển nên ngày nay Anh vẫn là một trong những thị trường bảo hiểm nhân thọ lớn nhất thế giới với các công ty bảo hiểm nhân thọ xuyên quốc gia điển hình như Prudential…
Ở Mỹ:
Bảo hiểm ở Hoa Kỳ được xây dựng trên mô hình bảo hiểm Anh. Vào năm 1735 công ty bảo hiểm đầu tiên của Hoa Kỳ đã ra đời ở Chaleston. Năm 1759 hội nghị giáo hội trưởng lão PhiladenPhia đã quyết định bảo trợ cho tập đoàn bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Hoa Kì. Ngày 22-5-1761, tập đoàn này đã kí kết được HĐBH nhân thọ đầu tiên với công chúng Mỹ. Mãi đến 80 năm sau dịch vụ bảo hiểm nhân thọ Mỹ mới thực sự phát triển. Chìa khoá dẫn đến thành công chính là nhờ các công ty bảo hiểm đã hạn chế được những sự chống đối từ các nhóm tôn giáo.
Năm 1835 ở New York đã xảy ra một vụ hoả hoạn đầy tai tiếng. Vụ hoả hoạn này khiến người dân ở đây lưu tâm nhiều hơn đến nhu cầu phải có nguồn dự trữ để bù đắp cho những thiệt hại nghiêm trọng không thể lường trước được. Hai năm sau Massachusetts trở thành bang đầu tiên ở Mỹ sử dụng luật pháp buộc các công ty phải tích luỹ nguồn dự trữ này.
Từ đó đến nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế ngành bảo hiểm của nước này cũng phát triển mạnh theo hướng từ một vài công ty ban đầu trở thành ngành công nghiệp có quy mô lớn. Mặc dù bảo hiểm Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi vương quốc Anh nhưng thị trường bảo hiểm nước này lại phát triển theo hướng có phần khác với Anh. Và ngày nay lĩnh vực bảo hiểm ở Mỹ phát triển nhất thế giới.
1.2. Ở Việt Nam
Luật KDBH 2000 ghi nhận thuật ngữ “bảo hiểm con người”, trước đó trong các nghị định, thông tư ghi nhận thuật ngữ bảo hiểm nhân thọ mà không hề nhắc đến khái niệm bảo hiểm con người. Vì vậy, chúng ta nghiên cứu sự phát triển của bảo hiểm con người từ loại hình chủ yếu là bảo hiểm nhân thọ cho đến Luật KDBH 2000 (với khái niệm bảo hiểm con người) và sự phát triển của bảo hiểm con người từ năm 2000 đến nay.
Sự phát triển của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng gắn với lịch sử đất nước. Nếu lấy năm 1993 với Nghị định 100 CP (18-12-1993) về KDBH ra đời, thì trước năm 1993 bảo hiểm Việt Nam nói chung không phát triển. Nguyên nhân là do đất nước trải qua chiến tranh kéo dài và bị chia cắt thành hai miền khác nhau, mãi cho đến năm 1975 đất nước mới hoàn toàn giải phóng. Và từ năm 1975 đến năm 1993 là thời kì bảo hiểm độc quyền: chỉ có công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Đây cũng là thời kì thử nghiệm nên số nghiệp vụ chưa nhiều, phí bảo hiểm chưa phản ánh đầy đủ xác suất rủi ro.
Có thể nói Nghị định 100 CP ngày 18-12-1993 là mốc đánh dấu sự thay đổi và phát triển của bảo hiểm Việt Nam. Nghị định quy định về địa vị pháp lí của các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), cho phép sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế vào hoạt động KDBH, trong đó chú trọng đến các nhà đầu tư nước ngoài để thúc đẩy sự phát triển của bảo hiểm trong nước. Trong Nghị định đã đề cập đến khái niệm: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn con người theo khoản 1 và khoản 2 Điều 7 và đây cũng là những đối tượng của bảo hiểm con người sau này.
Sau khi Nghị định 100 CP ra đời, để cụ thể hoá sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động bảo hiểm. Bộ tài chính đã ra thông tư hướng dẫn:
Thông tư 46 của Bộ tài chính ngày 30-5-1994 về hướng dẫn thi hành Nghị định 100 CP của chính phủ về hoạt động bảo hiểm.
Sau Nghị định 100 CP phải kể đến Bộ luật dân sự 1995 có những điều khoản cụ thể quy định về HĐBH (Nghị định 100 CP chưa đề cập đến). Các quy định này tương đối có hệ thống, có sự liên kết với các quy định về giao dịch dân sự. Mặc dù chưa mang tính cụ thể, chi tiết nhưng những quy định của Bộ luật dân sự là tiền đề quan trọng cho việc áp dụng, thực hiện các quy định của HĐBH con người sau này.
Nếu chỉ có các quy định của Bộ luật dân sự về HĐBH thì quá chung chung, không thể đáp ứng các nhu cầu của con người và các vụ tranh chấp sẽ xảy ra do những quy định không rõ ràng của pháp luật. Từ thực tế đó, để đáp ứng nhu cầu đảm bảo cho tương lai của con người, Luật KDBH 2000 ra đời với mục đích “để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm; đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm, góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường hiệu lực quản lí nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm”.7 Nội dung chủ yếu và quan trọng của luật là quy định về HĐBH (từ Điều 12 đến Điều 57), và cũng từ luật này đã ghi nhận HĐBH con người (từ Điều 32 đến Điều 39). Với chưa đầy 10 điều nhưng luật đã có qui định về đối tượng, số tiền, quyền và nghĩa vụ của các bên, các trường hợp không trả tiền bảo hiểm trong HĐBH con người. Những điều khoản này là căn cứ để ký kết và thực hiện HĐBH con người.
Khi có những cơ sở pháp lý để cho việc thực hiện HĐBH con người thì cũng cần có đường lối chiến lược đúng đắn, để đáp ứng được yêu cầu đó Thủ tướng Chính Phủ đã ra quyết định Quyết định 175 / 2003 về phê duyệt “ Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư, bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân được thụ hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế, thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội, nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế”.9 Giải pháp được đề cập đến đó là: “Nhà nước có chính sách khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ, ưu tiên phát triển các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có tính chất đầu tư dài hạn”. Bảo hiểm con người với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ là chủ yếu đã, đang và sẽ được được chú trọng, quan tâm của Đảng và Nhà nước.
Sau khi luật KDBH ra đời chính phủ ban hành Nghị định 42/2001 NĐCP ngày 1/8/2001nhằm quy định chi tiết thi hành Luật KDBH để các quy định này đi vào cuộc sống.
Bộ luật dân sự 2005 ghi nhận quy định HĐBH, trong đó có hai hình thức bảo hiểm là bắt buộc và tự nguyện. Tính mạng và sức khoẻ con người là đối tượng của bảo hiểm tự nguyện. Bộ luật cũng quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên và quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng của bên bảo hiểm nếu bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin không đúng về đối tượng bảo hiểm nhằm giao kết hợp đồng để hưởng tiền bảo hiểm (Điều 577 Bộ luật dân sự)
Tóm lại từ năm 1993 đến nay pháp luật về hợp đồng nói chung và HĐBH con người nói riêng luôn có sự phát triển để phù hợp hơn với nhu cầu thực tế của con người, đó cũng là quy luật tất yếu của sự phát triển. Pháp luật hoàn thiện là cơ sở để hạn chế tranh chấp xảy ra và hợp đồng thực hiện trong thực tế được thuận lợi.
Từ các quy định của luật thấy rằng HĐBH con người nói chung và HĐBH nhân thọ nói riêng không phải là một hợp đồng bồi thường. Mục đích của nó là cung cấp một khoản tiền cụ thể khi xảy ra những sự kiện được nêu trong HĐBH. Xét về khía cạnh vật chất cuộc sống con người là vô giá và rõ ràng là không phải bất kỳ một tổ chức nào cũng có thể cung cấp cho một người một “giá trị” tương đương với việc mất đi một sinh mạng.
2. Những quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người
2.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm con người
* Khái niệm
Trước tiên để đi đến tìm hiểu khái niệm HĐBH con người chúng ta phải tìm hiểu thế nào là HĐBH. Theo Điều 567 Bộ luật dân sự 2005: “HĐBH là sự thoả thuận giữa các bên theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền cho bên bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Từ khái niệm trên cho thấy HĐBH là sự thoả thuận giữa hai bên chủ thể đó là bên mua bảo hiểm (người tham gia bảo hiểm) và bên bảo hiểm (DNBH) với điều kiện là bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm để khi xảy ra sự kiện bảo hiểm bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền cho bên mua bảo hiểm.
Khác với Bộ luật dân sự 2005 Luật KDBH 2000 có mở rộng phạm vi chủ thể trong HĐBH con người. Theo Điều 12 Luật KDBH thì “HĐBH là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hay bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Rõ ràng Luật KDBH không chỉ quy định chung chung là DNBH phải trả một khoản tiền cho bên mua bảo hiểm như Bộ luật dân sự mà chỉ rõ DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hay bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi nghiên cứu các quy định của HĐBH con người trong các phân tích tiếp theo.
Khác với Việt Nam, Thái Lan là một nước có nền kinh tế phát triển khá trong khu vực nên lĩnh vực bảo hiểm cũng được chú trọng từ sớm. Các quy định của pháp luật về bảo hiểm được quy định chủ yếu trong Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan. Ngay từ năm 1992 Thái Lan có đạo luật bảo hiểm nhân thọ nhằm điều chỉnh hoạt động của công ty bảo hiểm nhân thọ. Do vậy nếu so sánh chúng ta sẽ thấy được điểm khác biệt trong các quy định về luật bảo hiểm giữa hai nước.
Điều 861 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan có khái niệm: “ HĐBH là hợp đồng trong đó một người đồng ý bồi thường hay trả một số tiền trong trường hợp mất hàng hay xảy ra bất cứ sự cố nào trong tương lai quy định trong HĐBH và người kia đồng ý trả cho việc đó một số tiền gọi là phí bảo hiểm”. Theo khái niệm trên thì ở Thái Lan việc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra bất cứ sự cố nào trong tương lai quy định trong HĐBH (Việt Nam là khi có sự kiện bảo hiểm do các bên thoả thuận hay theo quy định của pháp luật), nên phạm vi trả tiền bảo hiểm của Thái Lan mở rộng hơn.
Đó là HĐBH còn HĐBH con người cũng là HĐBH nhưng đối tượng của nó chỉ liên quan đến tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn con người; vì thế theo tác giả:
“HĐBH con người là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và DNBH để bảo hiểm cho tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn của người tham gia bảo hiểm hay người được chỉ định trong hợp đồng; theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm và DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hay bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
2.2. Đặc điểm hợp đồng bảo hiểm con người
2.2.1. Hợp đồng bảo hiểm con người là hợp đồng thanh toán có định mức
Đối tượng của bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn con người. Đó là những thứ vô giá không thể tính toán được, không thể xác định được chính xác và trên thực tế không bù đắp nổi. Không ai có thể xác định được tính mạng con người trị giá là bao nhiêu. Vì thế trong HĐBH con người không tồn tại điều khoản giá trị bảo hiểm. Nghĩa vụ của DNBH ở đây là trả tiền bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng và không phải là trách nhiệm bồi thường tổn thất mà là giúp đỡ về mặt vật chất cho người được bảo hiểm. Và cũng chính từ đối tượng HĐBH con người không thể tính toán được thành tiền nên số tiền DNBH trả cho khách hàng chỉ có thể là một số tiền được ấn định sẵn ngay từ khi ký kết hợp đồng. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm bên bảo hiểm sẽ thanh toán cho bên tham gia bảo hiểm và thường không bị giới hạn bởi nguyên tắc giá trị thiệt hại giống như HĐBH tài sản và HĐBH trách nhiệm dân sự.
Chính từ đặc điểm này mà người tham gia HĐBH con người khi ký hợp đồng cần cân nhắc dựa trên mức thu nhập, khả năng tài chính để quyết định số tiền tham gia phù hợp.
2.2.2. Hợp đồng bảo hiểm con nguời không áp dụng nguyên tắc bảo hiểm trùng và nguyên tắc thế quyền
Điều 44 Luật KDBH có nêu “bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết HĐBH với hai DNBH trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm”
Khoản 2 Điều 44 có quy định: tổng số tiền bồi thường của các DNBH không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản. Vì thế mà HĐBH con người không áp dụng nguyên tắc này. Và một thực tế là đối tượng HĐBH con người không thể tính toán được thành tiền nên nếu một người tham gia đồng thời nhiều HĐBH với nhiều DNBH khác nhau thì họ có quyền nhận đầy đủ các khoản tiền từ các DNBH đó theo thoả thuận trong hợp đồng, chứ không bị giới hạn về giá trị thiệt hại giống như bảo hiểm tài sản.
Trong HĐBH con người cũng không áp dụng nguyên tắc thế quyền. Điều đó có nghĩa là người bảo hiểm sau khi đã thanh toán, chi trả số tiền bảo hiểm, không được phép thế quyền người tham gia bảo hiểm hay người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để khiếu nại người thứ ba truy đòi số tiền bảo hiểm tương ứng. Hay nói cách khác, một người có thể đồng thời nhận nhận được khoản chi trả thanh toán của công ty bảo hiểm và khoản bồi thường của người thứ ba gây thiệt hại. Đặc điểm này mang lại lợi ích cho khách hàng khi tham gia HĐBH con người
2.2.3. Hợp đồng bảo hiểm con người đáp ứng rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm
Trước hết đặc điểm này thể hiện ngay trong các loại HĐBH, bởi mỗi đối tượng của bảo hiểm con người: tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn đều có thể làm nên một hợp đồng riêng và trong mỗi loại hợp đồng có nhiều sản phẩm khác nhau ví dụ trong HĐBH nhân thọ thì có bảo hiểm sinh kỳ, tử kỳ,..
Không giống như bảo hiểm tài sản chỉ góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia bảo hiểm gặp sự cố, bảo hiểm con người đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm như HĐBH hưu trí sẽ đáp ứng yêu cầu tham gia những khoản trợ cấp đều đặn hàng tháng. Bảo Việt - tập đoàn tài chính bảo hiểm nhân thọ lớn nhất Việt Nam đã ghi nhận mục đích của các sản phẩm bảo hiểm hưu trí là “mang đến sức khoẻ và an nhàn cho tuổi già, đảm bảo khoản lương hưu ổn định cho tất cả mọi người, cả nguời đã có và chưa có bảo hiểm xã hội. Thể hiện lòng hiếu thảo đối với những người thân yêu hay quan tâm đến chính bản thân”.23 Còn bảo hiểm tử kỳ sẽ giúp người tham gia bảo hiểm để lại cho gia đình một số tiền khi họ bị tử vong. HĐBH tai nạn con người giúp người tham gia khắc phục khó khăn khi gặp tai nạn. Chính vì đặc điểm này của HĐBH con người làm cho hợp đồng này chiếm khối lượng lớn trên thị trường bảo hiểm, thu hút nhiều người tham gia.
2.2.4. Các loại hợp đồng trong bảo hiểm con người rất đa dạng, phức tạp
Thứ nhất: Trong HĐBH con người có các sản phẩm bảo hiểm khác nhau rồi mỗi một hợp đồng có sự khác nhau của thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm rồi độ tuổi của người tham gia
Thứ hai: Chủ thể trong HĐBH con người có thể có bốn bên tham gia: Người bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Đặc điểm này chỉ có duy nhất trong HĐBH con người và vì thế làm cho hợp đồng này phức tạp hơn.
2.2.5. Hợp đồng bảo hiểm con người chịu ảnh hưởng của những điều kiện kinh tế xã hội nhất định
Thật vậy khi điều kiện kinh tế phát triển, áp lực cuộc sống giảm đi, họ không phải lo cho cuộc sống hàng ngày thì lúc đó họ mới có thể nghĩ đến bảo hiểm. Ở các nước kinh tế phát triển (bảo hiểm nhân thọ loại hình chủ yếu của bảo hiểm con người đã ra đời và phát triển rất lâu) còn những nước kém phát triển hay đang phát triển thì hình thức bảo hiểm này hay là chưa có hay là mới bước đầu triển khai. Ngoài ra bảo hiểm con người còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khác như đường lối chính sách, trình độ học vấn của người dân…
2.3. Phân loại hợp đồng bảo hiểm con người
* Theo thời hạn bảo hiểm
HĐBH con người được chia ra làm hai loại:
+ HĐBH con người ngắn hạn: Là loại hợp đồng mà trong đó người tham gia bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm trong một thời hạn ngắn thường là một năm trở xuống. Người bảo hiểm cam kết thanh toán trợ cấp khi có các rủi ro bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm.
+ HĐBH con người dài hạn: Là loại hợp đồng mà trong đó người tham gia bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm trong một thời hạn dài thường là trên một năm cho đến hết đời.
* Theo hình thức bảo hiểm
HĐBH con người cũng được chia ra làm hai loại:
+ HĐBH con người bắt buộc: Là hợp đồng mà theo pháp luật bắt buộc các đối tượng phải tham gia ví dụ như bảo hiểm tai nạn hành khách.
+ HĐBH con người tự nguyện: Là hợp đồng mà theo đó người được bảo hiểm hay người tham gia bảo hiểm có thể đưa ra rất nhiều nhu cầu bảo hiểm, còn người bảo hiểm có thể chấp nhận hay không chấp nhận là tuỳ theo sự thoả thuận và cam kết. Tính tự nguyện khiến người bảo hiểm phải phục vụ tốt hơn, cung cấp các dịch vụ tốt hơn đến khách hàng.
* Theo rủi ro bảo hiểm
HĐBH con người có các loại sau:
+ HĐBH nhân thọ: Là hợp đồng bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro liên quan đến tuổi thọ của con người và được chia ra làm các loại sau:
. HĐBH tử kỳ: Là loại hợp đồng mà theo đó nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn thoả thuận thì doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng.
. HĐBH sinh kỳ: Là loại hợp đồng mà theo đó nếu người được bảo hiểm sống đến hết thời hạn thoả thuận, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng.
. HĐBH hỗn hợp: Là loại HĐBH kết hợp cả hai loại nghiệp vụ bảo hiểm đó là: bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ.
+ HĐBH phi nhân thọ: Là loại hợp đồng chỉ liên quan đến các rủi ro như bệnh tật, tai nạn, mất khả năng lao động và cả tử vong. Đặc điểm này không liên quan đến tuổi thọ của con người.
2.4. Ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm con người
Để tồn tại và phát triển thì HĐBH con người phải đáp ứng được các mục đích của người tham gia trong hiện tại cũng như nhu cầu đảm bảo cho tương lai sau này. Thực tế khi ký kết HĐBH con người có vai trò không chỉ đối với người tham gia bảo hiểm, DNBH mà còn đối với cả sự phát triển kinh tế của đất nước.
2.4.1. Đối với người tham gia bảo hiểm
HĐBH con người góp phần ổn định đời sống, là chỗ dựa tinh thần cho người tham gia cũng như người được hưởng bảo hiểm. Như trên chúng ta đã biết con người phải lao động để duy trì cuộc sống và chính trong quá trình lao động con người luôn phải đối mặt với rủi ro. Nếu không may xảy ra rủi ro thì gia đình không những mất thu nhập mà còn phải bỏ ra rất nhiều chi phí để trang trải khó khăn. Việc tham gia HĐBH con người sẽ phần nào giải quyết những khó khăn trước mắt đó.
Trên báo Tiền Phong với nhan đề “Bảo hiểm nhân thọ, sự an tâm là vô giá” khách hàng đã cho biết “nếu có điều kiện chúng ta nên tham gia bảo hiểm nhân thọ bởi lẽ nhu cầu bảo vệ tài chính cho gia đình là rất cần thiết. Tất nhiên chẳng ai mong đợi những điều không may xảy ra, nhưng bảo hiểm sẽ mang đến sự an tâm cho gia đình trước những bất chắc và giảm gánh lo về tài chính những lúc ngặt nghèo. Đối với tôi, sự an tâm là vô giá".15 Sự an tâm giúp con người vượt qua khó khăn, tiếp tục cuộc sống đảm bảo tương lai sau này.
Tất nhiên trong hiện tại có rất nhiều hình thức khác nhau có thể đảm bảo cho cuộc sống hiện tại cũng như tương lai nhưng bảo hiểm con người luôn góp
còn có những điểm bất cập. Vì thế cần thiết phải ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự 2005. Ngoài ra phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về bảo hiểm con người để người dân hiểu rõ quyền, nghĩa vụ của mình. Khi hệ thống pháp luật đã hoàn chỉnh mà người dân không tiếp cận, không hiểu được thì tác dụng của pháp luật đối với người dân sẽ không được thể hiện. Biện pháp để tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo hiểm con người đó là trên các phương tiện thông tin đại chúng để đại đa số người dân nắm được.
Hơn thế nữa phải tăng cường chất lượng giải quyết tranh chấp về HĐBH. Tranh chấp trong lĩnh vực này có thể do DNBH không thực hiện đúng nội dung của hợp đồng cũng có thể do bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng nhằm trục lợi bảo hiểm và có thể do sự thiếu hoàn chỉnh của pháp luật. Không chỉ riêng lĩnh vực bảo hiểm mà tranh chấp trong lĩnh vực nào đều gây ảnh hưởng đến giá trị của pháp luật. Thực tế có nhiều vụ tranh chấp toà án xử vẫn còn không đúng với bản chất của vụ việc. Vì lẽ đó để đảm bảo giải quyết tranh chấp hợp lý công bằng thì phải nâng cao trình độ, bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm phán trong lĩnh vực này.
Cuối cùng nhà nước phải có đường lối chính sách cụ thể để phát triển thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm con người nói riêng lúc đó mới có thể khuyến khích mọi người dân tham gia để bảo vệ mình và cũng là đảm bảo sự tồn tại của xã hội.
KẾT LUẬN
Một nhiệm vụ lớn đặt ra đối với Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như ngày nay đó là đưa đất nước tiến kịp với quá trình phát triển chung của thế giới và đặc biệt hơn nữa là để phù hợp với tư cách là một thành viên của tổ chức WTO. Để thực hiện được nhiệm vụ đó cần có những con người đủ sức đủ tài tham gia và bảo hiểm con người góp phần tạo nên những con người như thế
Từ vấn đề lý luận của luận văn chúng ta thấy được bảo hiểm con người luôn gắn liền với xã hội loài người vì bảo hiểm sẽ giúp người tham gia có một chỗ dựa tinh thần, sự đảm bảo về vật chất để duy trì cuộc sống, phát triển xã hội. Đối với Việt Nam hiện nay khi bảo hiểm con người còn “mới mẻ” đối với người dân thì càng phải tạo điều kiện hơn nữa để lĩnh vực này đi vào cuộc sống, phát huy tác dụng đối với cuộc sống con người . Vì thế lĩnh vực này cần được coi trọng không những trong quá khứ mà cả hiện tại và đặc biệt là tương lai. Một xã hội phát triển thì cần có những con người tạo lập và duy trì sự phát triển . Đó như là một quy luật tất yếu của tự nhiên.
Từ thực tiễn nghiên cứu của luận văn người viết đã chỉ ra những tranh chấp phát sinh từ HĐBH con người trên thực tế. Những tranh chấp này do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể là do sự thiếu hiểu biết của khách hàng cũng có thể do sự quy định chưa hợp lý của pháp luật. Nhưng dù là bất kỳ nguyên nhân nào đi nữa thì những tranh chấp xảy ra đều ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của xã hội và là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển.
Vậy để có một thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm con người nói riêng phát triển thì cần có sự đóng góp của từng người dân, của nhà nước và của toàn xã hội. Bên cạnh đó cần có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh cùng các quy định cụ thể, chi tiết để mỗi người tham gia ký kết, mỗi doanh nghiệp thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Có như vậy thì tương lai của ngành này mới đảm bảo được ý nghĩa đích thực của nó đối với con người và xã hội loài người
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 4
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG 4
BẢO HIỂM CON NGƯỜI 4
1. Một vài nét khái quát cơ bản về lĩnh vực bảo hiểm con người 4
1.1. Các nước trên thế giới 4
1.2. Ở Việt Nam 6
2. Những quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người 9
2.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm con người 9
2.2. Đặc điểm hợp đồng bảo hiểm con người 10
2.2.1. Hợp đồng bảo hiểm con người là hợp đồng thanh toán có định mức 10
2.2.2. Hợp đồng bảo hiểm con nguời không áp dụng nguyên tắc bảo hiểm trùng và nguyên tắc thế quyền 11
2.2.3. Hợp đồng bảo hiểm con người đáp ứng rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm 11
2.2.4. Các loại hợp đồng trong bảo hiểm con người rất đa dạng, phức tạp 12
2.2.5. Hợp đồng bảo hiểm con người chịu ảnh hưởng của những điều kiện kinh tế xã hội nhất định 12
2.3. Phân loại hợp đồng bảo hiểm con người 13
2.4. Ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm con người 14
2.4.1. Đối với người tham gia bảo hiểm 14
2.4.2. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm 15
2.4.3. Đối với sự phát triển kinh tế 15
2.4.4. Hợp đồng bảo hiểm con người tạo cơ hội việc làm cho người lao động 16
2.5. Các yếu tố của hợp đồng bảo hiểm con người 16
2.5.1. Chủ thể 16
2.5.2. Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người 18
2.5.3. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm con người 19
2.6. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm con người 29
2.6.1. Do HĐBH con người cũng là hợp đồng dân sự nên nó phải thoả mãn các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự 29
2.6.2. Ngoài ra để HĐBH con người có hiệu lực thì cần thoả mãn những điều kiện sau 29
CHƯƠNG II 33
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 33
VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CON NGƯỜI 33
1. Vài nét đánh giá chung về thị trường bảo hiểm con người ở Việt Nam hiên nay 33
1.1. Thị trường bảo hiểm con người vẫn còn là mới mẻ đối với người dân Việt Nam 33
1.2. Thực trạng thị trường bảo hiểm con người ở Việt Nam 34
2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người 35
2.1. Tranh chấp phát sinh từ nghĩa vụ cung cấp thông tin của khách hàng 36
2.2. Tranh chấp do việc xác định sự kiện bảo hiểm 38
2.3. Tranh chấp do nội dung của hợp đồng không rõ ràng 42
CHƯƠNG III 44
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CON NGƯỜI 44
1. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với hợp đồng bảo hiểm con người 44
1.1. Thuận lợi 44
1.2. Bên cạnh những thuận lợi còn có những khó khăn do việc gia nhập WTO mang lại 45
2. Những bất cập trong luật kinh doanh bảo hiểm về hợp đồng bảo hiểm con người 46
2.1. Về quyền lợi có thể được bảo hiểm 46
2.2. Về hành vi thông báo sai tuổi của bên mua bảo hiểm đối với người được bảo hiểm 49
2.3. Về hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng của bên mua bảo hiểm 51
2.4. Về điều khoản hợp đồng bảo hiểm con người 52
2.5. Về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm 53
3. Kiến nghị và giải pháp 54
3.1. Cần sửa đổi những điểm bất hợp lý của luật kinh doanh bảo hiểm cho phù hợp với nhu cầu thực tế 54
3.2. Cần có những biện pháp cụ thể từ doanh nghiệp bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và đặc biệt là chính sách của nhà nước 55
KẾT LUẬN 58
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người với những công cụ bằng đồng, đá cho đến những thành tựu khoa học kỹ thuật ngày nay là cả một quá trình phấn đấu, tìm tòi phát triển không ngừng của mỗi con người trong xã hội. Các Mác đã nói “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”.1, tr.358 Quả thực như vậy, vì hoạt động con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp của nó, còn hoạt động con người gắn liền với xã hội, phục vụ cho xã hội. Nhưng cũng phải nhận thấy rằng để sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên, con người phải lao động để duy trì cuộc sống, phát triển xã hội và vì vậy con người chính là lực lượng sản xuất chủ yếu, không có con người thì không có xã hội loài người.
Thực tế, chúng ta đều có thể nhận thấy là khi lao động sản xuất con người luôn luôn phải đối mặt với tai nạn, rủi ro, bệnh tật,… đe doạ đến cuộc sống, tính mạng của con người. Để khắc phục được tình trạng đó, có rất nhiều biện pháp đề phòng, hạn chế tai nạn rủi ro xảy ra, nhưng đó là chưa đủ bởi vị trí và tầm quan trọng của con người nói riêng và xã hội loài người nói chung thì cần có những biện pháp khác nữa để khắc phục hậu quả đó. Vì vậy, bảo hiểm con người đã ra đời. Bảo hiểm con người giúp mỗi người khi tham gia ổn định cuộc sống, khắc phục khó khăn, tạo ra chỗ dựa tinh thần để họ an tâm học tập, lao động sản xuất. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2000-2010, Đảng và nhà nước ta đã xác định “ tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị trường bảo hiểm trong nước mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, kể cả việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài”.2 Bảo hiểm nói chung, bảo hiểm con người nói riêng đang được sự quan tâm của Đảng, nhà nước và của toàn xã hội.
Đối với nước ta hiện nay là một nước đang phát triển, vừa là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với việc các nước tăng cường hợp tác thì việc phát triển kinh tế để hội nhập là tất yếu và vì vậy, vấn đề bảo hiểm con người càng được quan tâm hơn bao giờ hết.
Chính vì những nguyên nhân trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Hợp đồng bảo hiểm con người những vấn đề lý luận và thực tiễn”, mục tiêu của đề tài nhằm khai thác được những vấn đề mọi người quan tâm, để thấy được vai trò, tầm quan trọng của bảo hiểm con người và đặc biệt là tăng thêm sự hiểu biết của bản thân trong lĩnh vực này.
2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu hợp đồng bảo hiểm con người, trên cơ sở xem xét các quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật dân sự, và các văn bản có liên quan. Trên cơ sở đó thấy được ưu điểm, nhược điểm của các quy định để đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm con người nói riêng.
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để hoàn thành tốt đề tài, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra tác giả còn sử dụng phương pháp: phân tích, so sánh, tổng hợp,…
4. Tình hình thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài
Về vấn đề bảo hiểm con người đã có nhiều công trình đề cập đến như giáo trình “Bảo hiểm” của trường Đại học Kinh Té Quốc Dân, cuốn “Bảo hiểm nhân thọ những vấn đề lý luận và thực tiễn” của thạc sỹ Trần Vũ Hải. Bên cạnh đó còn có rất nhiều các bài viết về bảo hiểm con người trên các sách, báo, tạp chí… Tuy nhiên những công trình nghiên cứu đó chỉ đề cập đến những vấn đề lý luận của bảo hiểm con người hay đi sâu nghiên cứu bảo hiểm nhân thọ (lĩnh vực chủ yếu của bảo hiểm con người). Qua đề tài này tác giả muốn trình bày và đi sâu nghiên cứu bảo hiểm con người trên cả hai phương điện đó là lý luận và thực tiễn.
5. Cơ cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khoá luận còn có phần nội dung được cơ cấu thành ba chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hợp đồng bảo hiểm con người
Chương II: Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người
Chương III: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người.
Với ý nghĩa là một đề tài khoa học khoá luận đòi hỏi nhiều kiến thức và kinh nghiệm thực tế. Là sinh viên lần đầu tiếp xúc với đề tài khoa học nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự thông cảm và những ý kiến đóng góp, chỉ bảo của thầy cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
BẢO HIỂM CON NGƯỜI
1. Một vài nét khái quát cơ bản về lĩnh vực bảo hiểm con người
1.1. Các nước trên thế giới
Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng, bảo hiểm con người ra đời do nhu cầu khách quan của đời sống kinh tế xã hội đòi hỏi. Đó là nhu cầu được bảo vệ, được giúp đỡ, được chia sẻ hoạn nạn rủi ro khi tổn thất xảy ra. Trở lại với thời lịch sử xa xưa khi loài người sống bằng nghề săn bắt, hái lượm; ngay lúc đó, họ đã biết cách dự trữ những con vật săn bắt được. Đến một giai đoạn phát triển khá hơn, con người biết chăn nuôi trồng trọt, nhưng sản xuất nông nghiệp rất bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên và lúc đó nhà nông họ đã biết dự trữ lương thực khi mất mùa.
Quả thật, những hành động dự trữ những con vật rồi cả lương thực khi mất mùa nó không mang tính đảm bảo chắc chắn cho cuộc sống nhưng nó phần nào đã thể hiện được ý thức được bảo vệ của con người. Và đây cũng là hình thức sơ khai của bảo hiểm.
Thuật ngữ “Bảo hiểm con người” trong hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) con người được ghi nhận trong Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (KDBH) của Việt Nam (với hình thức bảo hiểm nhân thọ là chủ yếu). Trên thế giới, mỗi nước có thể có các cách gọi khác nhau cho lĩnh vực này và các nước thường đề cập đến là bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy, đối với việc nghiên cứu hình thành và phát triển của bảo hiểm con người trên thế giới, tác giả xin trình bày sự hình thành và phát triển của bảo hiểm nhân thọ.
Nếu như trong thời kỳ sơ khai, vấn đề con người quan tâm là nhu cầu ăn, ở, mặc thì ngày nay khi nhu cầu đó đã được đáp ứng đầy đủ thì những nhu cầu khác xa hơn, cao hơn trong đó có nhu cầu chăm lo cho tương lai cũng đòi hỏi phải đáp ứng. Bảo hiểm nhân thọ ra đời là đáp ứng nhu cầu đó. Chúng ta nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển vảo hiểm nhân thọ ở Anh, Mỹ là hai nước có ngành bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển nhất thế giới.
Ở Anh:
Sau cách mạng Ánh sáng 1688 Châu Âu chỉ có vương quốc Anh công nhận tính pháp lý của bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy mà trong suốt ba thập kỷ sau cách mạng Ánh sáng ở Anh dịch vụ này phát triển mạnh mẽ. Công ty bảo hiểm nhân thọ ra đời đầu tiên ở Anh (1762). Trong suốt quá trình công nghiệp hoá, dịch vụ bảo hiểm nhân thọ có rất nhiều bước phát triển. Năm 1879 chính phủ Anh thông qua “đạo luật bồi thường cho người lao động”. Đạo luật này buộc các công ty phải đóng bảo hiểm tai nạn lao động cho nhân viên. Trong thế kỷ 19 người ta đã lập ra rất nhiều hội đoàn có trách nhiệm bảo hiểm nhân mạng và sức khoẻ cho hội viên. Bên cạnh đó cũng có một số hội kín chỉ cung cấp dịch vụ bảo hiểm lệ phí thấp cho những ai là hội viên của họ. Ngày nay các hội kín này vẫn tiếp tục bảo hiểm cho hội viên, điều này cũng diễn ra tương tự ở hầu hết các tổ chức của người lao động. Có nhiều chủ sử dụng lao động còn lo luôn một lúc nhiều HĐBH nhân thọ và sức khoẻ cho nhân viên. Các hợp đồng này không chỉ đơn thuần bảo hiểm nhân thọ mà còn đảm bảo cho nhân viên có cuộc sống ổn định khi họ bị bệnh, tai nạn hay về hưu. Chính các hình thức này là tiền thân của loại hình bảo hiểm con người ngày nay. Do có một chiều dài lịch sử phát triển nên ngày nay Anh vẫn là một trong những thị trường bảo hiểm nhân thọ lớn nhất thế giới với các công ty bảo hiểm nhân thọ xuyên quốc gia điển hình như Prudential…
Ở Mỹ:
Bảo hiểm ở Hoa Kỳ được xây dựng trên mô hình bảo hiểm Anh. Vào năm 1735 công ty bảo hiểm đầu tiên của Hoa Kỳ đã ra đời ở Chaleston. Năm 1759 hội nghị giáo hội trưởng lão PhiladenPhia đã quyết định bảo trợ cho tập đoàn bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Hoa Kì. Ngày 22-5-1761, tập đoàn này đã kí kết được HĐBH nhân thọ đầu tiên với công chúng Mỹ. Mãi đến 80 năm sau dịch vụ bảo hiểm nhân thọ Mỹ mới thực sự phát triển. Chìa khoá dẫn đến thành công chính là nhờ các công ty bảo hiểm đã hạn chế được những sự chống đối từ các nhóm tôn giáo.
Năm 1835 ở New York đã xảy ra một vụ hoả hoạn đầy tai tiếng. Vụ hoả hoạn này khiến người dân ở đây lưu tâm nhiều hơn đến nhu cầu phải có nguồn dự trữ để bù đắp cho những thiệt hại nghiêm trọng không thể lường trước được. Hai năm sau Massachusetts trở thành bang đầu tiên ở Mỹ sử dụng luật pháp buộc các công ty phải tích luỹ nguồn dự trữ này.
Từ đó đến nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế ngành bảo hiểm của nước này cũng phát triển mạnh theo hướng từ một vài công ty ban đầu trở thành ngành công nghiệp có quy mô lớn. Mặc dù bảo hiểm Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi vương quốc Anh nhưng thị trường bảo hiểm nước này lại phát triển theo hướng có phần khác với Anh. Và ngày nay lĩnh vực bảo hiểm ở Mỹ phát triển nhất thế giới.
1.2. Ở Việt Nam
Luật KDBH 2000 ghi nhận thuật ngữ “bảo hiểm con người”, trước đó trong các nghị định, thông tư ghi nhận thuật ngữ bảo hiểm nhân thọ mà không hề nhắc đến khái niệm bảo hiểm con người. Vì vậy, chúng ta nghiên cứu sự phát triển của bảo hiểm con người từ loại hình chủ yếu là bảo hiểm nhân thọ cho đến Luật KDBH 2000 (với khái niệm bảo hiểm con người) và sự phát triển của bảo hiểm con người từ năm 2000 đến nay.
Sự phát triển của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng gắn với lịch sử đất nước. Nếu lấy năm 1993 với Nghị định 100 CP (18-12-1993) về KDBH ra đời, thì trước năm 1993 bảo hiểm Việt Nam nói chung không phát triển. Nguyên nhân là do đất nước trải qua chiến tranh kéo dài và bị chia cắt thành hai miền khác nhau, mãi cho đến năm 1975 đất nước mới hoàn toàn giải phóng. Và từ năm 1975 đến năm 1993 là thời kì bảo hiểm độc quyền: chỉ có công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Đây cũng là thời kì thử nghiệm nên số nghiệp vụ chưa nhiều, phí bảo hiểm chưa phản ánh đầy đủ xác suất rủi ro.
Có thể nói Nghị định 100 CP ngày 18-12-1993 là mốc đánh dấu sự thay đổi và phát triển của bảo hiểm Việt Nam. Nghị định quy định về địa vị pháp lí của các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), cho phép sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế vào hoạt động KDBH, trong đó chú trọng đến các nhà đầu tư nước ngoài để thúc đẩy sự phát triển của bảo hiểm trong nước. Trong Nghị định đã đề cập đến khái niệm: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn con người theo khoản 1 và khoản 2 Điều 7 và đây cũng là những đối tượng của bảo hiểm con người sau này.
Sau khi Nghị định 100 CP ra đời, để cụ thể hoá sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động bảo hiểm. Bộ tài chính đã ra thông tư hướng dẫn:
Thông tư 46 của Bộ tài chính ngày 30-5-1994 về hướng dẫn thi hành Nghị định 100 CP của chính phủ về hoạt động bảo hiểm.
Sau Nghị định 100 CP phải kể đến Bộ luật dân sự 1995 có những điều khoản cụ thể quy định về HĐBH (Nghị định 100 CP chưa đề cập đến). Các quy định này tương đối có hệ thống, có sự liên kết với các quy định về giao dịch dân sự. Mặc dù chưa mang tính cụ thể, chi tiết nhưng những quy định của Bộ luật dân sự là tiền đề quan trọng cho việc áp dụng, thực hiện các quy định của HĐBH con người sau này.
Nếu chỉ có các quy định của Bộ luật dân sự về HĐBH thì quá chung chung, không thể đáp ứng các nhu cầu của con người và các vụ tranh chấp sẽ xảy ra do những quy định không rõ ràng của pháp luật. Từ thực tế đó, để đáp ứng nhu cầu đảm bảo cho tương lai của con người, Luật KDBH 2000 ra đời với mục đích “để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm; đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm, góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường hiệu lực quản lí nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm”.7 Nội dung chủ yếu và quan trọng của luật là quy định về HĐBH (từ Điều 12 đến Điều 57), và cũng từ luật này đã ghi nhận HĐBH con người (từ Điều 32 đến Điều 39). Với chưa đầy 10 điều nhưng luật đã có qui định về đối tượng, số tiền, quyền và nghĩa vụ của các bên, các trường hợp không trả tiền bảo hiểm trong HĐBH con người. Những điều khoản này là căn cứ để ký kết và thực hiện HĐBH con người.
Khi có những cơ sở pháp lý để cho việc thực hiện HĐBH con người thì cũng cần có đường lối chiến lược đúng đắn, để đáp ứng được yêu cầu đó Thủ tướng Chính Phủ đã ra quyết định Quyết định 175 / 2003 về phê duyệt “ Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư, bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân được thụ hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế, thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội, nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế”.9 Giải pháp được đề cập đến đó là: “Nhà nước có chính sách khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ, ưu tiên phát triển các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có tính chất đầu tư dài hạn”. Bảo hiểm con người với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ là chủ yếu đã, đang và sẽ được được chú trọng, quan tâm của Đảng và Nhà nước.
Sau khi luật KDBH ra đời chính phủ ban hành Nghị định 42/2001 NĐCP ngày 1/8/2001nhằm quy định chi tiết thi hành Luật KDBH để các quy định này đi vào cuộc sống.
Bộ luật dân sự 2005 ghi nhận quy định HĐBH, trong đó có hai hình thức bảo hiểm là bắt buộc và tự nguyện. Tính mạng và sức khoẻ con người là đối tượng của bảo hiểm tự nguyện. Bộ luật cũng quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên và quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng của bên bảo hiểm nếu bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin không đúng về đối tượng bảo hiểm nhằm giao kết hợp đồng để hưởng tiền bảo hiểm (Điều 577 Bộ luật dân sự)
Tóm lại từ năm 1993 đến nay pháp luật về hợp đồng nói chung và HĐBH con người nói riêng luôn có sự phát triển để phù hợp hơn với nhu cầu thực tế của con người, đó cũng là quy luật tất yếu của sự phát triển. Pháp luật hoàn thiện là cơ sở để hạn chế tranh chấp xảy ra và hợp đồng thực hiện trong thực tế được thuận lợi.
Từ các quy định của luật thấy rằng HĐBH con người nói chung và HĐBH nhân thọ nói riêng không phải là một hợp đồng bồi thường. Mục đích của nó là cung cấp một khoản tiền cụ thể khi xảy ra những sự kiện được nêu trong HĐBH. Xét về khía cạnh vật chất cuộc sống con người là vô giá và rõ ràng là không phải bất kỳ một tổ chức nào cũng có thể cung cấp cho một người một “giá trị” tương đương với việc mất đi một sinh mạng.
2. Những quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người
2.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm con người
* Khái niệm
Trước tiên để đi đến tìm hiểu khái niệm HĐBH con người chúng ta phải tìm hiểu thế nào là HĐBH. Theo Điều 567 Bộ luật dân sự 2005: “HĐBH là sự thoả thuận giữa các bên theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền cho bên bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Từ khái niệm trên cho thấy HĐBH là sự thoả thuận giữa hai bên chủ thể đó là bên mua bảo hiểm (người tham gia bảo hiểm) và bên bảo hiểm (DNBH) với điều kiện là bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm để khi xảy ra sự kiện bảo hiểm bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền cho bên mua bảo hiểm.
Khác với Bộ luật dân sự 2005 Luật KDBH 2000 có mở rộng phạm vi chủ thể trong HĐBH con người. Theo Điều 12 Luật KDBH thì “HĐBH là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hay bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Rõ ràng Luật KDBH không chỉ quy định chung chung là DNBH phải trả một khoản tiền cho bên mua bảo hiểm như Bộ luật dân sự mà chỉ rõ DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hay bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi nghiên cứu các quy định của HĐBH con người trong các phân tích tiếp theo.
Khác với Việt Nam, Thái Lan là một nước có nền kinh tế phát triển khá trong khu vực nên lĩnh vực bảo hiểm cũng được chú trọng từ sớm. Các quy định của pháp luật về bảo hiểm được quy định chủ yếu trong Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan. Ngay từ năm 1992 Thái Lan có đạo luật bảo hiểm nhân thọ nhằm điều chỉnh hoạt động của công ty bảo hiểm nhân thọ. Do vậy nếu so sánh chúng ta sẽ thấy được điểm khác biệt trong các quy định về luật bảo hiểm giữa hai nước.
Điều 861 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan có khái niệm: “ HĐBH là hợp đồng trong đó một người đồng ý bồi thường hay trả một số tiền trong trường hợp mất hàng hay xảy ra bất cứ sự cố nào trong tương lai quy định trong HĐBH và người kia đồng ý trả cho việc đó một số tiền gọi là phí bảo hiểm”. Theo khái niệm trên thì ở Thái Lan việc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra bất cứ sự cố nào trong tương lai quy định trong HĐBH (Việt Nam là khi có sự kiện bảo hiểm do các bên thoả thuận hay theo quy định của pháp luật), nên phạm vi trả tiền bảo hiểm của Thái Lan mở rộng hơn.
Đó là HĐBH còn HĐBH con người cũng là HĐBH nhưng đối tượng của nó chỉ liên quan đến tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn con người; vì thế theo tác giả:
“HĐBH con người là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và DNBH để bảo hiểm cho tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn của người tham gia bảo hiểm hay người được chỉ định trong hợp đồng; theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm và DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hay bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
2.2. Đặc điểm hợp đồng bảo hiểm con người
2.2.1. Hợp đồng bảo hiểm con người là hợp đồng thanh toán có định mức
Đối tượng của bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn con người. Đó là những thứ vô giá không thể tính toán được, không thể xác định được chính xác và trên thực tế không bù đắp nổi. Không ai có thể xác định được tính mạng con người trị giá là bao nhiêu. Vì thế trong HĐBH con người không tồn tại điều khoản giá trị bảo hiểm. Nghĩa vụ của DNBH ở đây là trả tiền bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng và không phải là trách nhiệm bồi thường tổn thất mà là giúp đỡ về mặt vật chất cho người được bảo hiểm. Và cũng chính từ đối tượng HĐBH con người không thể tính toán được thành tiền nên số tiền DNBH trả cho khách hàng chỉ có thể là một số tiền được ấn định sẵn ngay từ khi ký kết hợp đồng. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm bên bảo hiểm sẽ thanh toán cho bên tham gia bảo hiểm và thường không bị giới hạn bởi nguyên tắc giá trị thiệt hại giống như HĐBH tài sản và HĐBH trách nhiệm dân sự.
Chính từ đặc điểm này mà người tham gia HĐBH con người khi ký hợp đồng cần cân nhắc dựa trên mức thu nhập, khả năng tài chính để quyết định số tiền tham gia phù hợp.
2.2.2. Hợp đồng bảo hiểm con nguời không áp dụng nguyên tắc bảo hiểm trùng và nguyên tắc thế quyền
Điều 44 Luật KDBH có nêu “bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết HĐBH với hai DNBH trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm”
Khoản 2 Điều 44 có quy định: tổng số tiền bồi thường của các DNBH không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản. Vì thế mà HĐBH con người không áp dụng nguyên tắc này. Và một thực tế là đối tượng HĐBH con người không thể tính toán được thành tiền nên nếu một người tham gia đồng thời nhiều HĐBH với nhiều DNBH khác nhau thì họ có quyền nhận đầy đủ các khoản tiền từ các DNBH đó theo thoả thuận trong hợp đồng, chứ không bị giới hạn về giá trị thiệt hại giống như bảo hiểm tài sản.
Trong HĐBH con người cũng không áp dụng nguyên tắc thế quyền. Điều đó có nghĩa là người bảo hiểm sau khi đã thanh toán, chi trả số tiền bảo hiểm, không được phép thế quyền người tham gia bảo hiểm hay người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để khiếu nại người thứ ba truy đòi số tiền bảo hiểm tương ứng. Hay nói cách khác, một người có thể đồng thời nhận nhận được khoản chi trả thanh toán của công ty bảo hiểm và khoản bồi thường của người thứ ba gây thiệt hại. Đặc điểm này mang lại lợi ích cho khách hàng khi tham gia HĐBH con người
2.2.3. Hợp đồng bảo hiểm con người đáp ứng rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm
Trước hết đặc điểm này thể hiện ngay trong các loại HĐBH, bởi mỗi đối tượng của bảo hiểm con người: tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn đều có thể làm nên một hợp đồng riêng và trong mỗi loại hợp đồng có nhiều sản phẩm khác nhau ví dụ trong HĐBH nhân thọ thì có bảo hiểm sinh kỳ, tử kỳ,..
Không giống như bảo hiểm tài sản chỉ góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia bảo hiểm gặp sự cố, bảo hiểm con người đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm như HĐBH hưu trí sẽ đáp ứng yêu cầu tham gia những khoản trợ cấp đều đặn hàng tháng. Bảo Việt - tập đoàn tài chính bảo hiểm nhân thọ lớn nhất Việt Nam đã ghi nhận mục đích của các sản phẩm bảo hiểm hưu trí là “mang đến sức khoẻ và an nhàn cho tuổi già, đảm bảo khoản lương hưu ổn định cho tất cả mọi người, cả nguời đã có và chưa có bảo hiểm xã hội. Thể hiện lòng hiếu thảo đối với những người thân yêu hay quan tâm đến chính bản thân”.23 Còn bảo hiểm tử kỳ sẽ giúp người tham gia bảo hiểm để lại cho gia đình một số tiền khi họ bị tử vong. HĐBH tai nạn con người giúp người tham gia khắc phục khó khăn khi gặp tai nạn. Chính vì đặc điểm này của HĐBH con người làm cho hợp đồng này chiếm khối lượng lớn trên thị trường bảo hiểm, thu hút nhiều người tham gia.
2.2.4. Các loại hợp đồng trong bảo hiểm con người rất đa dạng, phức tạp
Thứ nhất: Trong HĐBH con người có các sản phẩm bảo hiểm khác nhau rồi mỗi một hợp đồng có sự khác nhau của thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm rồi độ tuổi của người tham gia
Thứ hai: Chủ thể trong HĐBH con người có thể có bốn bên tham gia: Người bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Đặc điểm này chỉ có duy nhất trong HĐBH con người và vì thế làm cho hợp đồng này phức tạp hơn.
2.2.5. Hợp đồng bảo hiểm con người chịu ảnh hưởng của những điều kiện kinh tế xã hội nhất định
Thật vậy khi điều kiện kinh tế phát triển, áp lực cuộc sống giảm đi, họ không phải lo cho cuộc sống hàng ngày thì lúc đó họ mới có thể nghĩ đến bảo hiểm. Ở các nước kinh tế phát triển (bảo hiểm nhân thọ loại hình chủ yếu của bảo hiểm con người đã ra đời và phát triển rất lâu) còn những nước kém phát triển hay đang phát triển thì hình thức bảo hiểm này hay là chưa có hay là mới bước đầu triển khai. Ngoài ra bảo hiểm con người còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khác như đường lối chính sách, trình độ học vấn của người dân…
2.3. Phân loại hợp đồng bảo hiểm con người
* Theo thời hạn bảo hiểm
HĐBH con người được chia ra làm hai loại:
+ HĐBH con người ngắn hạn: Là loại hợp đồng mà trong đó người tham gia bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm trong một thời hạn ngắn thường là một năm trở xuống. Người bảo hiểm cam kết thanh toán trợ cấp khi có các rủi ro bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm.
+ HĐBH con người dài hạn: Là loại hợp đồng mà trong đó người tham gia bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm trong một thời hạn dài thường là trên một năm cho đến hết đời.
* Theo hình thức bảo hiểm
HĐBH con người cũng được chia ra làm hai loại:
+ HĐBH con người bắt buộc: Là hợp đồng mà theo pháp luật bắt buộc các đối tượng phải tham gia ví dụ như bảo hiểm tai nạn hành khách.
+ HĐBH con người tự nguyện: Là hợp đồng mà theo đó người được bảo hiểm hay người tham gia bảo hiểm có thể đưa ra rất nhiều nhu cầu bảo hiểm, còn người bảo hiểm có thể chấp nhận hay không chấp nhận là tuỳ theo sự thoả thuận và cam kết. Tính tự nguyện khiến người bảo hiểm phải phục vụ tốt hơn, cung cấp các dịch vụ tốt hơn đến khách hàng.
* Theo rủi ro bảo hiểm
HĐBH con người có các loại sau:
+ HĐBH nhân thọ: Là hợp đồng bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro liên quan đến tuổi thọ của con người và được chia ra làm các loại sau:
. HĐBH tử kỳ: Là loại hợp đồng mà theo đó nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn thoả thuận thì doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng.
. HĐBH sinh kỳ: Là loại hợp đồng mà theo đó nếu người được bảo hiểm sống đến hết thời hạn thoả thuận, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng.
. HĐBH hỗn hợp: Là loại HĐBH kết hợp cả hai loại nghiệp vụ bảo hiểm đó là: bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ.
+ HĐBH phi nhân thọ: Là loại hợp đồng chỉ liên quan đến các rủi ro như bệnh tật, tai nạn, mất khả năng lao động và cả tử vong. Đặc điểm này không liên quan đến tuổi thọ của con người.
2.4. Ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm con người
Để tồn tại và phát triển thì HĐBH con người phải đáp ứng được các mục đích của người tham gia trong hiện tại cũng như nhu cầu đảm bảo cho tương lai sau này. Thực tế khi ký kết HĐBH con người có vai trò không chỉ đối với người tham gia bảo hiểm, DNBH mà còn đối với cả sự phát triển kinh tế của đất nước.
2.4.1. Đối với người tham gia bảo hiểm
HĐBH con người góp phần ổn định đời sống, là chỗ dựa tinh thần cho người tham gia cũng như người được hưởng bảo hiểm. Như trên chúng ta đã biết con người phải lao động để duy trì cuộc sống và chính trong quá trình lao động con người luôn phải đối mặt với rủi ro. Nếu không may xảy ra rủi ro thì gia đình không những mất thu nhập mà còn phải bỏ ra rất nhiều chi phí để trang trải khó khăn. Việc tham gia HĐBH con người sẽ phần nào giải quyết những khó khăn trước mắt đó.
Trên báo Tiền Phong với nhan đề “Bảo hiểm nhân thọ, sự an tâm là vô giá” khách hàng đã cho biết “nếu có điều kiện chúng ta nên tham gia bảo hiểm nhân thọ bởi lẽ nhu cầu bảo vệ tài chính cho gia đình là rất cần thiết. Tất nhiên chẳng ai mong đợi những điều không may xảy ra, nhưng bảo hiểm sẽ mang đến sự an tâm cho gia đình trước những bất chắc và giảm gánh lo về tài chính những lúc ngặt nghèo. Đối với tôi, sự an tâm là vô giá".15 Sự an tâm giúp con người vượt qua khó khăn, tiếp tục cuộc sống đảm bảo tương lai sau này.
Tất nhiên trong hiện tại có rất nhiều hình thức khác nhau có thể đảm bảo cho cuộc sống hiện tại cũng như tương lai nhưng bảo hiểm con người luôn góp
còn có những điểm bất cập. Vì thế cần thiết phải ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự 2005. Ngoài ra phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về bảo hiểm con người để người dân hiểu rõ quyền, nghĩa vụ của mình. Khi hệ thống pháp luật đã hoàn chỉnh mà người dân không tiếp cận, không hiểu được thì tác dụng của pháp luật đối với người dân sẽ không được thể hiện. Biện pháp để tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo hiểm con người đó là trên các phương tiện thông tin đại chúng để đại đa số người dân nắm được.
Hơn thế nữa phải tăng cường chất lượng giải quyết tranh chấp về HĐBH. Tranh chấp trong lĩnh vực này có thể do DNBH không thực hiện đúng nội dung của hợp đồng cũng có thể do bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng nhằm trục lợi bảo hiểm và có thể do sự thiếu hoàn chỉnh của pháp luật. Không chỉ riêng lĩnh vực bảo hiểm mà tranh chấp trong lĩnh vực nào đều gây ảnh hưởng đến giá trị của pháp luật. Thực tế có nhiều vụ tranh chấp toà án xử vẫn còn không đúng với bản chất của vụ việc. Vì lẽ đó để đảm bảo giải quyết tranh chấp hợp lý công bằng thì phải nâng cao trình độ, bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm phán trong lĩnh vực này.
Cuối cùng nhà nước phải có đường lối chính sách cụ thể để phát triển thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm con người nói riêng lúc đó mới có thể khuyến khích mọi người dân tham gia để bảo vệ mình và cũng là đảm bảo sự tồn tại của xã hội.
KẾT LUẬN
Một nhiệm vụ lớn đặt ra đối với Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như ngày nay đó là đưa đất nước tiến kịp với quá trình phát triển chung của thế giới và đặc biệt hơn nữa là để phù hợp với tư cách là một thành viên của tổ chức WTO. Để thực hiện được nhiệm vụ đó cần có những con người đủ sức đủ tài tham gia và bảo hiểm con người góp phần tạo nên những con người như thế
Từ vấn đề lý luận của luận văn chúng ta thấy được bảo hiểm con người luôn gắn liền với xã hội loài người vì bảo hiểm sẽ giúp người tham gia có một chỗ dựa tinh thần, sự đảm bảo về vật chất để duy trì cuộc sống, phát triển xã hội. Đối với Việt Nam hiện nay khi bảo hiểm con người còn “mới mẻ” đối với người dân thì càng phải tạo điều kiện hơn nữa để lĩnh vực này đi vào cuộc sống, phát huy tác dụng đối với cuộc sống con người . Vì thế lĩnh vực này cần được coi trọng không những trong quá khứ mà cả hiện tại và đặc biệt là tương lai. Một xã hội phát triển thì cần có những con người tạo lập và duy trì sự phát triển . Đó như là một quy luật tất yếu của tự nhiên.
Từ thực tiễn nghiên cứu của luận văn người viết đã chỉ ra những tranh chấp phát sinh từ HĐBH con người trên thực tế. Những tranh chấp này do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể là do sự thiếu hiểu biết của khách hàng cũng có thể do sự quy định chưa hợp lý của pháp luật. Nhưng dù là bất kỳ nguyên nhân nào đi nữa thì những tranh chấp xảy ra đều ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của xã hội và là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển.
Vậy để có một thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm con người nói riêng phát triển thì cần có sự đóng góp của từng người dân, của nhà nước và của toàn xã hội. Bên cạnh đó cần có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh cùng các quy định cụ thể, chi tiết để mỗi người tham gia ký kết, mỗi doanh nghiệp thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Có như vậy thì tương lai của ngành này mới đảm bảo được ý nghĩa đích thực của nó đối với con người và xã hội loài người
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 4
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG 4
BẢO HIỂM CON NGƯỜI 4
1. Một vài nét khái quát cơ bản về lĩnh vực bảo hiểm con người 4
1.1. Các nước trên thế giới 4
1.2. Ở Việt Nam 6
2. Những quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người 9
2.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm con người 9
2.2. Đặc điểm hợp đồng bảo hiểm con người 10
2.2.1. Hợp đồng bảo hiểm con người là hợp đồng thanh toán có định mức 10
2.2.2. Hợp đồng bảo hiểm con nguời không áp dụng nguyên tắc bảo hiểm trùng và nguyên tắc thế quyền 11
2.2.3. Hợp đồng bảo hiểm con người đáp ứng rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm 11
2.2.4. Các loại hợp đồng trong bảo hiểm con người rất đa dạng, phức tạp 12
2.2.5. Hợp đồng bảo hiểm con người chịu ảnh hưởng của những điều kiện kinh tế xã hội nhất định 12
2.3. Phân loại hợp đồng bảo hiểm con người 13
2.4. Ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm con người 14
2.4.1. Đối với người tham gia bảo hiểm 14
2.4.2. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm 15
2.4.3. Đối với sự phát triển kinh tế 15
2.4.4. Hợp đồng bảo hiểm con người tạo cơ hội việc làm cho người lao động 16
2.5. Các yếu tố của hợp đồng bảo hiểm con người 16
2.5.1. Chủ thể 16
2.5.2. Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người 18
2.5.3. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm con người 19
2.6. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm con người 29
2.6.1. Do HĐBH con người cũng là hợp đồng dân sự nên nó phải thoả mãn các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự 29
2.6.2. Ngoài ra để HĐBH con người có hiệu lực thì cần thoả mãn những điều kiện sau 29
CHƯƠNG II 33
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 33
VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CON NGƯỜI 33
1. Vài nét đánh giá chung về thị trường bảo hiểm con người ở Việt Nam hiên nay 33
1.1. Thị trường bảo hiểm con người vẫn còn là mới mẻ đối với người dân Việt Nam 33
1.2. Thực trạng thị trường bảo hiểm con người ở Việt Nam 34
2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người 35
2.1. Tranh chấp phát sinh từ nghĩa vụ cung cấp thông tin của khách hàng 36
2.2. Tranh chấp do việc xác định sự kiện bảo hiểm 38
2.3. Tranh chấp do nội dung của hợp đồng không rõ ràng 42
CHƯƠNG III 44
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CON NGƯỜI 44
1. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với hợp đồng bảo hiểm con người 44
1.1. Thuận lợi 44
1.2. Bên cạnh những thuận lợi còn có những khó khăn do việc gia nhập WTO mang lại 45
2. Những bất cập trong luật kinh doanh bảo hiểm về hợp đồng bảo hiểm con người 46
2.1. Về quyền lợi có thể được bảo hiểm 46
2.2. Về hành vi thông báo sai tuổi của bên mua bảo hiểm đối với người được bảo hiểm 49
2.3. Về hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng của bên mua bảo hiểm 51
2.4. Về điều khoản hợp đồng bảo hiểm con người 52
2.5. Về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm 53
3. Kiến nghị và giải pháp 54
3.1. Cần sửa đổi những điểm bất hợp lý của luật kinh doanh bảo hiểm cho phù hợp với nhu cầu thực tế 54
3.2. Cần có những biện pháp cụ thể từ doanh nghiệp bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và đặc biệt là chính sách của nhà nước 55
KẾT LUẬN 58
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: