Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
HUỶ QUYẾT ĐỊNH TRỌNG TÀI:
CHẾ ĐỊNH CÒN NHIỀU BẤT CẬP TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Sự thành công của trọng tài quốc tế phụ thuộc rất nhiều vào việc quyết định trọng tài có được thi hành hay không. Rõ ràng không có gì làm thất vọng các bên kinh doanh bằng việc bỏ ra những tốn kém lớn về công sức và tiền của để rồi chỉ có được một quyết định trọng tài không được thi hành. Điều mà các bên mong muốn trong giải quyết tranh chấp thương mại, đương nhiên là sự đền bù về tiền bạc, chứ không phải là một tờ giấy ghi phán quyết. Các bên kinh doanh sẽ không bao giờ lựa chọn trọng tài một khi họ không tin tưởng vào tính thi hành của quyết định trọng tài. Ngược lại, giao lưu thương mại sẽ trở nên trôi chảy nếu các thương gia biết rõ rằng tranh chấp của họ có thể được giải quyết một cách hiệu quả. Việc xác định được tính thi hành của quyết định trọng tài sẽ ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư trong sự lựa chọn có nên giải quyết tranh chấp hay không, bằng trọng tài hay Toà án, chọn trọng tài ở đâu và trong một số trường hợp có thể dẫn cả tới quyết định quan trọng của họ là có nên kinh doanh nữa hay không.
Một trong những yếu tố đảm bảo cho tính có thể thi hành của phán quyết trọng tài là các quy định về huỷ quyết định trọng tài phải rất hợp lý và chặt chẽ, tránh trường hợp quyết định trọng tài có thể bị bên thua kiện yêu cầu huỷ một cách tuỳ tiện.
So với quy tắc tố tụng của các thiết chế trọng tài quốc tế, cũng như pháp luật về trọng tài của các nước, thì Pháp lệnh trọng tài thương mại của Việt Nam dành một số lượng điều khoản nhiều hơn cả để quy định về vấn đề huỷ quyết định trọng tài, từ các nguyên tắc huỷ quyết định trọng tài, cho đến thủ tục, trình tự huỷ quyết định trọng tài.
cần nhấn mạnh một điều rằng, trong Chương về huỷ quyết định trọng tài, Pháp lệnh không làm rõ quyết định trọng tài thuộc đối tượng được các bên yêu cầu huỷ là quyết định gì. Theo Điều 37 và một số điều khác của Pháp lệnh, thì có rất nhiều loại quyết định trọng tài [ii]. Tuy nhiên, để làm rõ vấn đề này, điểm 5 Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ngày 31 tháng 7 năm 2003 hướng dẫn thi hành một số quyết định của Pháp lệnh trọng tài thương mại (Nghị quyết) đã xác định rõ quyết định trọng tài thuộc đối tượng bị các bên yêu cầu huỷ là quyết định trọng tài nêu tại Điều 44 [iii].
Thời hiệu cho các bên tranh chấp gửi đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài nêu tại Điều 50 của Pháp lệnh là 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định của trọng tài. Pháp lệnh cũng quy định thêm trường hợp các bên gửi đơn quá hạn vì có sự kiện bất khả kháng, thì thời gian có sự kiện bất khả kháng không được tính vào thời hạn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài. Tuy nhiên, theo chúng tôi, khoảng thời gian 30 ngày như vậy là hơi ngắn. Luật Mẫu của trọng tài UNCITRAL quy định thời hiệu cho việc yêu cầu huỷ quyết định trọng tài là 3 tháng [iv]. Pháp luật của một số nước cũng dành một khoảng thời gian tương tự để các bên có thể tìm được các chứng cứ làm cơ sở để huỷ quyết định trọng tài.
Vấn đề quan trọng cần xem xét trong việc huỷ quyết định trọng tài là các căn cứ để huỷ quyết định trọng tài. Đây cũng chính là một trong các quy định gây nhiều tranh cãi nhất, bởi nó chính là mấu chốt đảm bảo cho tính công bằng của trọng tài.
Nhận xét chung nhất của tác giả là căn cứ để huỷ quyết định trọng tài trong pháp luật Việt Nam là rất rộng so với Luật Mẫu trọng tài của UNCITRAL cũng như pháp luật các nước. Điều 54 của Pháp lệnh liệt kê 6 căn cứ để huỷ quyết định trọng tài như sau:
1. Không có thoả thuận trọng tài;
2.Thoả thuận trọng tài vô hiệu theo quyết định tại Điều 10 của Pháp lệnh;
3. Thành phần Hội đồng trọng tài, tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên theo quy định của Pháp lệnh;
4. Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội động trọng tài, trong trường hợp quyết định trọng tài có một phần không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì phần quyết định này bị huỷ;
5. Bên yêu cầu chứng minh được trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp có trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của trọng tài viên quyết định tại khoản 2 Điều 13 của Pháp lệnh;
6. Quyết định trọng tài trái với lợi ích công cộng của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xem qua thì có vẻ những căn cứ để huỷ quyết định trọng tài nêu trên là phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, nghiên cứu và phân tích kỹ một vài trong số các điểm đã liệt kê trên đây, chúng ta sẽ thấy còn rất nhiều điểm bất cập xung quanh các căn cứ để huỷ quyết định trọng tài của Việt Nam. Trước hết, hãy cùng nhau phân tích căn cứ thứ hai về “Thoả thuận trọng tài vô hiệu theo quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh”.
Theo Điều 10 của Pháp lệnh trọng tài, thì có tới 6 trường hợp dẫn đến quyết định trọng tài bị vô hiệu:
1. Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại được quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh;
2. Người ký thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp luật;
3. Một bên ký thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
4. Thoả thuận trọng tài không quy định hay quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thoả thuận bổ sung;
5. Thoả thuận trọng tài không được lập theo quyết định tại Điều 9 của Pháp lệnh;
6. Bên ký kết thoả thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe doạ và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu; thời hạn tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu là 6 tháng, kể từ ngày ký kết thoả thuận trọng tài, nhưng phải trước ngày Hội đồng trọng tài mở phiên họp đầu tiên giải quyết vụ tranh chấp quyết định tại Điều 30 của Pháp lệnh;
Trên thực tế việc thoả thuận trọng tài “không quy định” hay quy định “không rõ” về đối tượng tranh chấp và tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp là rất dễ xảy ra, nhiều khi chỉ vì những lỗi rất đơn giản như quy định chung chung [v]; thoả thuận trọng tài ghi không chính xác [vi]; thoả thuận trọng tài diễn đạt nhầm [vii]; thoả thuận trọng tài chọn tổ chức trọng tài trước đây đã có nhưng nay không tồn tại [viii].
Trên thực tế Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) đã nhận được rất nhiều điều khoản trọng tài được lập trước ngày Pháp lệnh trọng tài có hiệu lực “không quy định” hay “quy định không rõ” về đối tượng tranh chấp và tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp như đã dẫn chứng ở trên, trong khi việc giải quyết một số tranh chấp lại được tiến hành vào thời điểm Pháp lệnh có hiệu lực. Nếu áp dụng các quy định của khoản 4 Điều 10 Pháp lệnh, thì những thoả thuận trọng tài đó sẽ bị coi là vô hiệu. Vậy liệu có thể xem xét những thoả thuận trọng tài này căn cứ theo Điều 61 của Pháp lệnh trọng tài hay không? [ix] Theo quan điểm của VIAC thì các Hội đồng trọng tài sẽ không áp dụng Pháp lệnh trong khi giải quyết các vụ tranh chấp có thoả thuận trọng tài ký trước thời điểm Pháp lệnh có hiệu lực. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp một (hay hai) bên trong vụ tranh chấp lại viện dẫn áp dụng Pháp lệnh, thì vấn đề lại không đơn giản. Vấn đề càng phức tạp hơn nữa với đa số các trường hợp phổ biến đã, đang và sẽ xảy ra trên thực tế với các thoả thuận trọng tài có những khiếm khuyết nêu tại Khoản 4 Điều 10 Pháp lệnh, được ký kết sau ngày Pháp lệnh trọng tài có hiệu lực. Theo chúng tôi, khi nhận được các loại thoả thuận trọng tài đó, Hội đồng trọng tài cần giải thích cho các bên đương sự biết để có thoả thuận bổ sung. Khoản 4 Điều 10 cũng đã có quy định “mở” cho các bên có thoả thuận bổ sung. Tuy nhiên, thiếu sự xem xét kỹ lưỡng và hướng dẫn cụ thể của Hội đồng trọng tài, các bên sẽ khó có thể tự mình đưa ra một thoả thuận trọng tài đầy đủ theo yêu cầu. Vấn đề sẽ trở nên phức tạp và không công bằng cho các bên nếu thoả thuận trọng tài bị coi là vô hiệu dựa trên căn cứ của khoản 4 Điều 10. Theo chúng tôi, việc thoả thuận trọng tài “không quy định” hay “quy định không rõ” đối tượng tranh chấp và tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp như đã dẫn chứng ở trên (quy định chung chung; ghi không chính xác; diễn đạt nhầm; chọn tổ chức trọng tài trước đây đã có nhưng nay không tồn tại v.v..”, không thể được coi là cơ sở để tuyên thoả thuận trọng tài là vô hiệu, càng không thể là căn cứ để huỷ quyết định trọng tài. Theo tác giả, đây là các quy định mang tính tuỳ tiện, đầy hình thức, nặng về yếu tố kỹ thuật mà yếu về tính pháp lý. Không thể đánh giá một lỗi về kỹ thuật soạn thảo văn bản là bản chất của một hành vi pháp lý. Có thể khẳng định rằng những quy định bất cập này của pháp luật Việt Nam chưa hề và sẽ không bao giờ tồn tại trong pháp luật về trọng tài của bất kỳ quốc gia nào, cũng như trong quy tắc tố tụng của bất kỳ thiết chế trọng tài quốc tế nào trên thế giới. Hầu hết pháp luật quốc gia cũng như quốc tế về trọng tài đều chỉ đưa ra một số lý do chung sau đây làm căn cứ để huỷ quyết định trọng tài:
• Một trong các bên ký kết thoả thuận trọng tài không đủ năng lực ký kết thoả thuận đó; hay thoả thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo luật mà các bên đã chọn để áp dụng hay theo luật của quốc gia nơi quyết định được tuyên trong trường hợp các bên không ghi rõ; hoặc
• Bên làm đơn yêu cầu không được thông báo một cách đầy đủ về việc chỉ định trọng tài viên hay tố tụng trọng tài, hay nói cách khác không thể trình bày vụ việc của mình; hoặc
• Quyết định trọng tài giải quyết một tranh chấp không được quy định hay không nằm trong phạm vi các điều khoản của thoả thuận đưa ra trọng tài giải quyết, hay quyết định này bao gồm những phán quyết về các vấn đề vượt quá phạm vi của thoả thuận đưa ra trọng tài giải quyết với điều kiện là những quyết định về các vấn đề đưa ra trọng tài giải quyết có thể tách ra khỏi những vấn đề không được đưa ra trọng tài và chỉ có phần của quyết định chứa đựng các quyết định về vấn đề không được nêu ra trọng tài giải quyết có thể bị huỷ bỏ; hoặc
• Thành phần của Hội đồng trọng tài hay tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận giữa các bên hoặc, trong trường hợp không có thoả thuận đó, không phù hợp với luật của nước nơi tiến hành trọng tài; hoặc
• Toà án phát hiện rằng:
o Theo luật của quốc gia này, vấn đề nội dung tranh chấp không thể giải quyết bằng trọng tài; hoặc
o Quyết định trọng tài vi phạm trật tự công cộng của quốc gia đó.
Xét về hình thức, số lượng các căn cứ để huỷ quyết định trọng tài nêu tại điều khoản về huỷ quyết định trọng tài trong pháp luật Việt Nam là không nhiều (6 điểm). Tuy nhiên, về bản chất, các lý do để huỷ quyết định trọng tài theo pháp luật Việt Nam là rất rộng, do rất nhiều điều khoản khác đã được dẫn chiếu đến từ bản thân những căn cứ chính nêu trên. Cụ thể, đó là các căn cứ để tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu nêu tại Điều 10 của Pháp lệnh (6 điểm) [x] cũng như sự vi phạm nghĩa vụ của trọng tài viên quy định tại khoản 2 Điều 13 của Pháp lệnh [xi].
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
HUỶ QUYẾT ĐỊNH TRỌNG TÀI:
CHẾ ĐỊNH CÒN NHIỀU BẤT CẬP TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Sự thành công của trọng tài quốc tế phụ thuộc rất nhiều vào việc quyết định trọng tài có được thi hành hay không. Rõ ràng không có gì làm thất vọng các bên kinh doanh bằng việc bỏ ra những tốn kém lớn về công sức và tiền của để rồi chỉ có được một quyết định trọng tài không được thi hành. Điều mà các bên mong muốn trong giải quyết tranh chấp thương mại, đương nhiên là sự đền bù về tiền bạc, chứ không phải là một tờ giấy ghi phán quyết. Các bên kinh doanh sẽ không bao giờ lựa chọn trọng tài một khi họ không tin tưởng vào tính thi hành của quyết định trọng tài. Ngược lại, giao lưu thương mại sẽ trở nên trôi chảy nếu các thương gia biết rõ rằng tranh chấp của họ có thể được giải quyết một cách hiệu quả. Việc xác định được tính thi hành của quyết định trọng tài sẽ ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư trong sự lựa chọn có nên giải quyết tranh chấp hay không, bằng trọng tài hay Toà án, chọn trọng tài ở đâu và trong một số trường hợp có thể dẫn cả tới quyết định quan trọng của họ là có nên kinh doanh nữa hay không.
Một trong những yếu tố đảm bảo cho tính có thể thi hành của phán quyết trọng tài là các quy định về huỷ quyết định trọng tài phải rất hợp lý và chặt chẽ, tránh trường hợp quyết định trọng tài có thể bị bên thua kiện yêu cầu huỷ một cách tuỳ tiện.
So với quy tắc tố tụng của các thiết chế trọng tài quốc tế, cũng như pháp luật về trọng tài của các nước, thì Pháp lệnh trọng tài thương mại của Việt Nam dành một số lượng điều khoản nhiều hơn cả để quy định về vấn đề huỷ quyết định trọng tài, từ các nguyên tắc huỷ quyết định trọng tài, cho đến thủ tục, trình tự huỷ quyết định trọng tài.
cần nhấn mạnh một điều rằng, trong Chương về huỷ quyết định trọng tài, Pháp lệnh không làm rõ quyết định trọng tài thuộc đối tượng được các bên yêu cầu huỷ là quyết định gì. Theo Điều 37 và một số điều khác của Pháp lệnh, thì có rất nhiều loại quyết định trọng tài [ii]. Tuy nhiên, để làm rõ vấn đề này, điểm 5 Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ngày 31 tháng 7 năm 2003 hướng dẫn thi hành một số quyết định của Pháp lệnh trọng tài thương mại (Nghị quyết) đã xác định rõ quyết định trọng tài thuộc đối tượng bị các bên yêu cầu huỷ là quyết định trọng tài nêu tại Điều 44 [iii].
Thời hiệu cho các bên tranh chấp gửi đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài nêu tại Điều 50 của Pháp lệnh là 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định của trọng tài. Pháp lệnh cũng quy định thêm trường hợp các bên gửi đơn quá hạn vì có sự kiện bất khả kháng, thì thời gian có sự kiện bất khả kháng không được tính vào thời hạn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài. Tuy nhiên, theo chúng tôi, khoảng thời gian 30 ngày như vậy là hơi ngắn. Luật Mẫu của trọng tài UNCITRAL quy định thời hiệu cho việc yêu cầu huỷ quyết định trọng tài là 3 tháng [iv]. Pháp luật của một số nước cũng dành một khoảng thời gian tương tự để các bên có thể tìm được các chứng cứ làm cơ sở để huỷ quyết định trọng tài.
Vấn đề quan trọng cần xem xét trong việc huỷ quyết định trọng tài là các căn cứ để huỷ quyết định trọng tài. Đây cũng chính là một trong các quy định gây nhiều tranh cãi nhất, bởi nó chính là mấu chốt đảm bảo cho tính công bằng của trọng tài.
Nhận xét chung nhất của tác giả là căn cứ để huỷ quyết định trọng tài trong pháp luật Việt Nam là rất rộng so với Luật Mẫu trọng tài của UNCITRAL cũng như pháp luật các nước. Điều 54 của Pháp lệnh liệt kê 6 căn cứ để huỷ quyết định trọng tài như sau:
1. Không có thoả thuận trọng tài;
2.Thoả thuận trọng tài vô hiệu theo quyết định tại Điều 10 của Pháp lệnh;
3. Thành phần Hội đồng trọng tài, tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên theo quy định của Pháp lệnh;
4. Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội động trọng tài, trong trường hợp quyết định trọng tài có một phần không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì phần quyết định này bị huỷ;
5. Bên yêu cầu chứng minh được trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp có trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của trọng tài viên quyết định tại khoản 2 Điều 13 của Pháp lệnh;
6. Quyết định trọng tài trái với lợi ích công cộng của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xem qua thì có vẻ những căn cứ để huỷ quyết định trọng tài nêu trên là phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, nghiên cứu và phân tích kỹ một vài trong số các điểm đã liệt kê trên đây, chúng ta sẽ thấy còn rất nhiều điểm bất cập xung quanh các căn cứ để huỷ quyết định trọng tài của Việt Nam. Trước hết, hãy cùng nhau phân tích căn cứ thứ hai về “Thoả thuận trọng tài vô hiệu theo quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh”.
Theo Điều 10 của Pháp lệnh trọng tài, thì có tới 6 trường hợp dẫn đến quyết định trọng tài bị vô hiệu:
1. Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại được quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh;
2. Người ký thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp luật;
3. Một bên ký thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
4. Thoả thuận trọng tài không quy định hay quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thoả thuận bổ sung;
5. Thoả thuận trọng tài không được lập theo quyết định tại Điều 9 của Pháp lệnh;
6. Bên ký kết thoả thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe doạ và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu; thời hạn tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu là 6 tháng, kể từ ngày ký kết thoả thuận trọng tài, nhưng phải trước ngày Hội đồng trọng tài mở phiên họp đầu tiên giải quyết vụ tranh chấp quyết định tại Điều 30 của Pháp lệnh;
Trên thực tế việc thoả thuận trọng tài “không quy định” hay quy định “không rõ” về đối tượng tranh chấp và tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp là rất dễ xảy ra, nhiều khi chỉ vì những lỗi rất đơn giản như quy định chung chung [v]; thoả thuận trọng tài ghi không chính xác [vi]; thoả thuận trọng tài diễn đạt nhầm [vii]; thoả thuận trọng tài chọn tổ chức trọng tài trước đây đã có nhưng nay không tồn tại [viii].
Trên thực tế Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) đã nhận được rất nhiều điều khoản trọng tài được lập trước ngày Pháp lệnh trọng tài có hiệu lực “không quy định” hay “quy định không rõ” về đối tượng tranh chấp và tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp như đã dẫn chứng ở trên, trong khi việc giải quyết một số tranh chấp lại được tiến hành vào thời điểm Pháp lệnh có hiệu lực. Nếu áp dụng các quy định của khoản 4 Điều 10 Pháp lệnh, thì những thoả thuận trọng tài đó sẽ bị coi là vô hiệu. Vậy liệu có thể xem xét những thoả thuận trọng tài này căn cứ theo Điều 61 của Pháp lệnh trọng tài hay không? [ix] Theo quan điểm của VIAC thì các Hội đồng trọng tài sẽ không áp dụng Pháp lệnh trong khi giải quyết các vụ tranh chấp có thoả thuận trọng tài ký trước thời điểm Pháp lệnh có hiệu lực. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp một (hay hai) bên trong vụ tranh chấp lại viện dẫn áp dụng Pháp lệnh, thì vấn đề lại không đơn giản. Vấn đề càng phức tạp hơn nữa với đa số các trường hợp phổ biến đã, đang và sẽ xảy ra trên thực tế với các thoả thuận trọng tài có những khiếm khuyết nêu tại Khoản 4 Điều 10 Pháp lệnh, được ký kết sau ngày Pháp lệnh trọng tài có hiệu lực. Theo chúng tôi, khi nhận được các loại thoả thuận trọng tài đó, Hội đồng trọng tài cần giải thích cho các bên đương sự biết để có thoả thuận bổ sung. Khoản 4 Điều 10 cũng đã có quy định “mở” cho các bên có thoả thuận bổ sung. Tuy nhiên, thiếu sự xem xét kỹ lưỡng và hướng dẫn cụ thể của Hội đồng trọng tài, các bên sẽ khó có thể tự mình đưa ra một thoả thuận trọng tài đầy đủ theo yêu cầu. Vấn đề sẽ trở nên phức tạp và không công bằng cho các bên nếu thoả thuận trọng tài bị coi là vô hiệu dựa trên căn cứ của khoản 4 Điều 10. Theo chúng tôi, việc thoả thuận trọng tài “không quy định” hay “quy định không rõ” đối tượng tranh chấp và tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp như đã dẫn chứng ở trên (quy định chung chung; ghi không chính xác; diễn đạt nhầm; chọn tổ chức trọng tài trước đây đã có nhưng nay không tồn tại v.v..”, không thể được coi là cơ sở để tuyên thoả thuận trọng tài là vô hiệu, càng không thể là căn cứ để huỷ quyết định trọng tài. Theo tác giả, đây là các quy định mang tính tuỳ tiện, đầy hình thức, nặng về yếu tố kỹ thuật mà yếu về tính pháp lý. Không thể đánh giá một lỗi về kỹ thuật soạn thảo văn bản là bản chất của một hành vi pháp lý. Có thể khẳng định rằng những quy định bất cập này của pháp luật Việt Nam chưa hề và sẽ không bao giờ tồn tại trong pháp luật về trọng tài của bất kỳ quốc gia nào, cũng như trong quy tắc tố tụng của bất kỳ thiết chế trọng tài quốc tế nào trên thế giới. Hầu hết pháp luật quốc gia cũng như quốc tế về trọng tài đều chỉ đưa ra một số lý do chung sau đây làm căn cứ để huỷ quyết định trọng tài:
• Một trong các bên ký kết thoả thuận trọng tài không đủ năng lực ký kết thoả thuận đó; hay thoả thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo luật mà các bên đã chọn để áp dụng hay theo luật của quốc gia nơi quyết định được tuyên trong trường hợp các bên không ghi rõ; hoặc
• Bên làm đơn yêu cầu không được thông báo một cách đầy đủ về việc chỉ định trọng tài viên hay tố tụng trọng tài, hay nói cách khác không thể trình bày vụ việc của mình; hoặc
• Quyết định trọng tài giải quyết một tranh chấp không được quy định hay không nằm trong phạm vi các điều khoản của thoả thuận đưa ra trọng tài giải quyết, hay quyết định này bao gồm những phán quyết về các vấn đề vượt quá phạm vi của thoả thuận đưa ra trọng tài giải quyết với điều kiện là những quyết định về các vấn đề đưa ra trọng tài giải quyết có thể tách ra khỏi những vấn đề không được đưa ra trọng tài và chỉ có phần của quyết định chứa đựng các quyết định về vấn đề không được nêu ra trọng tài giải quyết có thể bị huỷ bỏ; hoặc
• Thành phần của Hội đồng trọng tài hay tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận giữa các bên hoặc, trong trường hợp không có thoả thuận đó, không phù hợp với luật của nước nơi tiến hành trọng tài; hoặc
• Toà án phát hiện rằng:
o Theo luật của quốc gia này, vấn đề nội dung tranh chấp không thể giải quyết bằng trọng tài; hoặc
o Quyết định trọng tài vi phạm trật tự công cộng của quốc gia đó.
Xét về hình thức, số lượng các căn cứ để huỷ quyết định trọng tài nêu tại điều khoản về huỷ quyết định trọng tài trong pháp luật Việt Nam là không nhiều (6 điểm). Tuy nhiên, về bản chất, các lý do để huỷ quyết định trọng tài theo pháp luật Việt Nam là rất rộng, do rất nhiều điều khoản khác đã được dẫn chiếu đến từ bản thân những căn cứ chính nêu trên. Cụ thể, đó là các căn cứ để tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu nêu tại Điều 10 của Pháp lệnh (6 điểm) [x] cũng như sự vi phạm nghĩa vụ của trọng tài viên quy định tại khoản 2 Điều 13 của Pháp lệnh [xi].
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links