Download miễn phí Jean François Lyotard với thực tại luận và tri thức luận

J.F Lyotard (1924 - 1998) – nhà triết học Pháp, người sáng lập chủ nghĩa hậu hiện
đại trong triết học.
Thời trẻ, J.F.Lyotard học triết học và văn học tại Đại học Sorbonne, hoàn thành
luận văn thạc sĩ triết học với đề tài: Sự bàng quan như một khái niệm đạo đức
(Indifference as an Ethical Notion). Từ 1950 đến 1959, ông giảng dạy triết học
tại các trường trung học ở Constantine, Algeria. Từ 1959 đến 1966, ông làm trợ
giảng tại Khoa Triết học, Đại học Paris X ở Nanterre. Trong thời gian này, ông
thường tham gia các buổi hội thảo về phân tâm học cấp tiến của Jacques Lacan,
những tư tưởng triết học của ông trong khoảng thời gian này đã được ông thể
hiện trong công trình Diễn ngôn, hình ảnh (Discourse figure. xuất bản năm
1967). Với công trình này, J.F.Lyotard đã nhận được bằng tiến sĩ triết học.
Từ 1968 đến 1970, J.F.Lyotard phụ trách một nhóm nghiên cứu tại Trung tâm
nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS). Vào đầu thập niên 70, ông được
bổ nhiệm làm giáo sư tại Đại học Paris VIII ở Vincennes và năm 1987, ông trở
thành giáo sư danh dự tại đây.
Với công trình Hoàn cảnh hậu hiện đại (The Postmodern Condition, xuất bản
năm 1979), tên tuổi của J.F.Lyotard đã nổi tiếng khắp thế giới. Trong những
năm 80 - 90, ông thường xuyên đi giảng khắp thế giới, trở thành sáng lập viênvà là chủ tịch một thời của Trường quốc tế triết học (CIP).
Luận điểm xuất phát của triết học Lyotard là quan niệm về thực tại (reality).
Theo ông, thực tại luôn xảy ra những sự kiện đặc thù, kỳ dị khiến cho mọi sự
mô tả mang tính duy lý không còn đúng nữa. Trong Kinh tế dục năng (Libidinal
Economy, xuất bản năm 1974), J.F.Lyotard xem thực tại là cái luôn bao gồm
những sự kiện không thể tiên đoán được, không hề có tính quy luật, nhưng có
thể đúc kết được. Do vậy, theo ông, có nhiều cách lý giải, mô tả khác nhau về
những sự kiện và không một sự lý giải nào có thể nắm bắt chính xác được sự
kiện. Các sự kiện luôn vượt qua những lý giải; mỗi lý giải luôn để lại hay bỏ
qua điều gì đó từ sự kiện. Do vậy, sự đa dạng hoá các thể loại mô tả có thể làm
biến mất cấu trúc thống trị trong văn bản và mở ra nhiều cách đọc, lý
giải và áp dụng cạnh tranh nhau.
Trong Trò chơi công bằng (Just Gaming, xuất bản năm 1979), J.F.Lyotard đã
đề cập tới vấn đề đa nguyên luận (paganism), khi nhấn mạnh sự khác biệt, đa
dạng trong cách tiếp cận thực tại. Theo ông, nếu thực tại được cấu thành từ
những sự kiện đặc thù thì không một quy luật phổ quát nào có thể lý giải từng
sự kiện một cách đầy đủ, công bằng được. Bởi lẽ, trong mỗi thực tại luôn tồn tại
những khác biệt không thể quy giản theo trật tự của sự vật. Thực tại phong phú
hơn lý luận và do vậy, cần tiếp cận sự kiện trong tính toàn vẹn, nguyên
trạng của chúng, tránh quy giản chúng về cái phổ quát. Với quan niệm này,
J.F.Lyotard cho rằng, mọi diễn ngôn đều là những tự sự, trần thuật (narrative);
mọi lý thuyết, quy luật đều chỉ là tập hợp những câu chuyện. Từ đó, ông phủ
nhận các diễn ngôn tự tuyên xưng đặt trên nền tảng chân lý, đồng thời bác bỏ ý
niệm về siêu diễn ngôn (đại tự sự, siêu tự sự - metanarrative), bác bỏ những lý
thuyết phổ quát được xem là cơ sở cho sự phán quyết mọi tình huống (triết học
Cantơ, Hêghen và Mác). J.F.Lyotard cho rằng, đa nguyên luận là sự đáp trả phù
hợp nhất đối với khát vọng công bằng. Đó là sự từ bỏ những phán quyết phổ
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiquát đơn nhất bằng cách sử dụng những phán quyết cụ thể khác nhau, từ bỏ
những sơ đồ lý thuyết mang tính quy luật và có thể áp dụng cho mọi tình huống
bằng cách sử dụng các lý thuyết có thể áp dụng cho từng tình huống cụ thể.
Rằng, một sự công bằng trong những cách tiếp cận đa dạng luôn đòi hỏi một sự
tiếp cận đa dạng về những cái công bằng; và đa nguyên luận chính là nỗ lực
đưa ra các phán quyết về những vấn đề chân, thiện, mỹ mà không cần có
những chuẩn mực được định hướng trước.
Đa nguyên luận bác bỏ mọi chuẩn mực phán quyết phổ quát, nhưng con người
cần phán quyết vì đòi hỏi của sự công bằng; vậy thì phán quyết sẽ như thế
nào, nếu không có những chuẩn mực? J.F.Lyotard gợi lại hai phương án của
Kant và Nietzsche. Kant cho rằng, con người phán quyết qua năng lực tự kiến
thiết của tư duy, và đó là năng lực bí ẩn. Còn Nietzsche thì cho rằng, phán
quyết là sự biểu hiện của ý chí quyền lực. Theo J.F.Lyotard, đa nguyên luận
không phải là phán quyết không có chuẩn mực, mà chính xác hơn, nó là phán
quyết không có chuẩn mực phổ quát. Điều mà ông muốn phủ nhận là sự tồn tại
của một diễn ngôn đưa ra những phán quyết thích hợp cho mọi tình huống.
Theo ông, đa nguyên luận đòi hỏi chúng ta cần nắm bắt từng tình huống cụ
thể để tạo ra những chuẩn mực cụ thể theo yêu cầu của tình huống đó bằng
hành vi khẳng định của ý chí tưởng tượng mà theo đó, chúng ta có thể có được
sự phong phú của chuẩn mực, phán quyết và công bằng. Do vậy, cần hiểu
đa nguyên luận là sự tồn tại của nhiều quy luật phán quyết.
Những ý tưởng cơ bản về tri thức, khoa học và sự hợp thức hoá được
J.F.Lyotard thể hiện cô đọng qua công trình Hoàn cảnh hậu hiện đại: Báo cáo
về tri thức, xuất bản năm 1979. Trong tác phẩm này, ông nghiên cứu về vị trí
của tri thức trong xã hội tin học hoá. Sự nở rộ của những thành tựu khoa học -
công nghệ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã ảnh hưởng lớn tới vấn đề vị trí
của tri thức ở các nước phát triển. Nét đặc trưng của những thành tựu khoa học- công nghệ trong giai đoạn này là quá trình tin học hoá xã hội. J.F.Lyotard đặc
biệt chú ý tới sự hợp thức hoá tri thức, vì đó là vấn đề quan hệ giữa tri thức và
quyền lực. Vấn đề đặt ra là, ai quyết định cái gì là tri thức và ai biết cần
quyết định cái gì? Trong thời đại tin học hoá, hơn bao giờ hết, vấn đề tri thức là
vấn đề của chính quyền. Để nghiên cứu vị trí của tri thức trong thời hậu hiện
đại, J.F.Lyotard đã xem xét đồng thời cả hai phương diện: phương diện chính
trị và phương diện nhận thức luận. Ông nhận thấy rằng, mối liên kết căn bản
của xã hội giống như các bước đi trong trò chơi ngôn ngữ. Do vị trí của tri thức
đã thay đổi, nên bản chất của các mối liên kết xã hội cũng thay đổi trong thời
hậu hiện đại.
Trong sự phân tích tiếp theo, J.F.Lyotard đã phân biệt hai kiểu tri thức: tri thức
tự sự (narrative knowledge) và tri thức khoa học (scientific knowledge). Theo
ông, tri thức tự sự tồn tại phổ biến ở các xã hội nguyên thuỷ, truyền thống; nó
dựa trên những câu chuyện kể dưới hình thức nghi lễ, âm nhạc, điệu nhảy,…
Tri thức tự sự không cần đến sự hợp thức hoá bên ngoài. Sự hợp thức hoá của
nó luôn mang tính nội tại, được duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác qua
những người kể khác nhau và trong quá trình đó, không hề xuất hiện một sự
hoài nghi nào về sự tồn tại của nó. Ông viết: “Chúng tui đã nói rằng cái sau (tri
thức tự sự - ND.) không coi trọng lắm vấn đề hợp thức hoá của mình; nó khẳng
định chính mình thông qua dụng học của việc trao truyền lại của mình, cho nên
không phải viện đến lập luận hay tiến hành chứng minh”(1). Tuy nhiên, đối với
tri thức khoa học, vấn đề hợp thức hoá (legitimation) luôn xuất hiện. Một trong
những đặc trưng nổi bật nhất của tri thức khoa học là nó chỉ bao hàm những
phát ngôn sở thị (denotative utterances), trong khi tri thức tự sự bao hàm nhiều
loại phát ngôn (sở thị (denotative), chỉ thị (prescriptive), thực hiện
(performative)). Nếu như mọi tri thức tự sự đều tự hợp thức hoá thì tri thức
khoa học phải cần đến những chuẩn mực khoa học nhất định để được hợp thức
hoá, trong đó bằng chứng và sự đồng thuận của các chuyên gia là hai nhân tố
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiquyết định sự hợp thức hoá tri thức khoa học. J.F.Lyotard viết: “Cùng với khoa
học hiện đại, có hai thành tố mới xuất hiện trong hệ vấn đề hợp thức hoá. Trước
hết, để trả lời câu hỏi: làm thế nào chứng minh được bằng chứng? hay, chung
hơn: ai quyết định những điều kiện của chân lý? người ta từ bỏ việc tìm kiếm
siêu hình học về một bằng chứng đầu tiên hay về một quyền uy siêu việt, và
thừa nhận rằng các điều kiện của tính chân lý, tức là các luật chơi của khoa học,
là ở ngay bên trong trò chơi này và không thể nào được xác lập khác hơn là
trong tranh luận mà bản thân phải mang tính khoa học, và rằng không có bằng
chứng nào khác về tính đúng đắn của các quy tắc ngoài việc chúng được hình
thành trên cơ sở sự đồng thuận của các chuyên gia”(2). Nếu tri thức tự sự
thường bắt nguồn từ những vị anh hùng có công lao to lớn đối với cộng đồng,
thì tri thức khoa học bắt nguồn từ những thiên tài khoa học, những người khám
phá ra chân lý khoa học. Cơ sở phân biệt giữa tri thức tự sự và tri thức khoa học
là điểm cơ bản trong tri thức luận, J.F.Lyotard cho rằng, một trong những đặc
trưng của thời hậu hiện đại là sự lấn át của tri thức khoa học đối với tri thức tự
sự. Ông viết: “Tri thức khoa học hoài nghi tính giá trị hiệu lực của các phát
ngôn tự sự và thừa nhận là chúng không bao giờ tuân theo các lập luận và dẫn
chứng. Nó xếp chúng vào một dạng tâm thức khác: hoang sơ, nguyên thuỷ, kém
phát triển, lạc hậu, hỗn loạn, dựa trên tư kiến, tập quán, quyền uy, thiên kiến,
dốt nát, ý hệ. Các truyện kể là những hư cấu, huyền thoại, truyền thuyết, thích
hợp với phụ nữ và trẻ con. Trong trường hợp tốt nhất, người ta cố rọi tia sáng
vào bóng đêm tăm tối, cố khai hoá, giáo dục, phát triển”(3). Dụng học
(pragmatism) của tri thức khoa học không thừa nhận sự hợp thức hoá của tri
thức tự sự bởi vì không thể quy nó về các phát ngôn sở thị. Theo cách tiếp cận
thực tại của J.F.Lyotard, sự lấn át này có thể tạo ra một mối nguy hiểm ở chỗ,
tri thức khoa học sẽ bỏ qua nhiều phương diện của sự kiện mà tri thức tự sự có
thể nắm bắt được. Hơn nữa, nguy cơ này có thể ảnh hưởng tới tương lai của
việc nghiên cứu hàn lâm vốn đang chịu sự chi phối của cách thức hợp thức hoá
lý tính, như cảm xúc, khát vọng cũng luôn xuất hiện để phá vỡ những sơ đồ tư
duy lý tính.
Những giới hạn của lý tính và phản ánh được J.F.Lyotard thể hiện trong “Diễn
ngôn, hình ảnh”, xuất bản năm 1967. Sự phê phán lý tính và sự phản ánh đã
làm dịch chuyển triết học hậu hiện đại của J.F.Lyotard từ sự tập trung vào
những động cơ hình ảnh và dục năng phá vỡ hệ thống sang sự phân tích tính vô
ước trong ngôn ngữ và những giới hạn của năng lực lý tính. J.F.Lyotard đã vay
mượn ý tưởng “trò chơi ngôn ngữ” của Wittgenstein để chỉ rõ vì sao lý tính và
sự phản ánh không thể trở thành toàn thể hoá. Theo ông, sự cáo chung của siêu
tự sự có nghĩa là, không một lý thuyết phổ quát nào có thể lý giải được mọi cái.
Hoàn cảnh hậu hiện đại được cấu thành từ những “trò chơi ngôn ngữ” phân
mảnh đã gắn kết với những hình thức vô ước của cuộc sống. Ngôn ngữ được
cấu tạo từ sự đa dạng các cơ chế biện minh vốn không thể phiên dịch qua lại
được. Một số là sở thị, số khác là chỉ thị… Chúng không có các tiêu chuẩn so
sánh bên ngoài, giữa chúng là sự khác biệt, một sự khác biệt không thể hoà giải
được. Do vậy, trong triết học của J.F.Lyotard, lý tính và sự phản ánh là những
giới hạn cố định, và do tính vô ước của “trò chơi ngôn ngữ”, lý tính không thể
hiểu được mọi cái qua một hệ thống phản ánh. Trong triết học hậu hiện đại, các
sự kiện được phân tích dưới dạng các phát ngôn và do vậy, chúng luôn vượt qua
sự phản ánh, bởi không một hệ thống phản ánh nào có thể lý giải cho mọi phát
ngôn.
Nhìn chung, mặc dù còn mang tính võ đoán và chưa thật sự thuyết phục khi
đồng nhất các học thuyết triết học phổ quát với các đại tự sự, quy mọi tri thức
về các phát ngôn ngôn ngữ, xoá nhoà ranh giới phân biệt có tính bản thể giữa
khoa học với truyện kể, song có thể nói, J.F.Lyotard đã đưa ra những kiến giải
mới về vấn đề tri thức và cách tiếp cận đối với thực tại trong hoàn cảnh xã hội
hậu hiện đại. Đó là cơ chế của sự hợp thức hoá tri thức, vạch rõ sự độc quyền

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Top