nt_phong1553
New Member
Download miễn phí Khóa luận Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước ASEAN
Hai thập kỷ qua đã chứng kiến sự biến động tỷ giá hối đoái danh nghĩa và thực tế giữa các đồng tiền lớn - đôla Mỹ, yên Nhật, các đồng tiền châu Âu trong EMS (từ năm 1999 là đồng Euro) cả trong ngắn hạn và trong trung hạn. Tỷ giá giữa các đồng tiền chính biến động mạnh sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ (từ 1945 đến 1971). Trong trung hạn, tỷ giá cũng biến động mạnh như giai đoạn lên giá của đồng đôla Mỹ 1980-85, giai đoạn lên giá của đồng yên 1990-95 và giảm giá trong quãng thời gian tiếp sau.
Các nước công nghiệp lớn vẫn chủ trương thả nổi tỷ giá và hạn chế can thiệp trên thị trường tiền tệ, ngoại trừ những lần căng thẳng và mất cân đối cao độ đe dọa trực tiếp triển vọng kinh tế nước họ.
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/web-viewer.html?file=jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-demo-2016-02-07-khoa_luan_kha_nang_loi_ich_va_lo_trinh_cho_viec_ra_doi_mot_d_HBQdmybo2e.png /tai-lieu/khoa-luan-kha-nang-loi-ich-va-lo-trinh-cho-viec-ra-doi-mot-dong-tien-chung-cho-cac-nuoc-asean-91785/
Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.
Ketnooi -
Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
5/2000, với mục đích xây dựng mạng lưới hợp tác tài chính đa phương phù hợp với sự độc lập kinh tế ngày càng tăng của các nước châu á và để đối phó với nguy cơ gia tăng các cú sốc tài chính có thể lây lan trong khu vực. Sáng kiến này nhằm mục đích sử dụng khuôn khổ ASEAN+3 để cải thiện việc trao đổi thông tin về các luồng vốn và vạch ra các bước tiến hướng đến thiết lập một hệ thống kiểm soát kinh tế và tài chính khu vực. Trọng tâm của Sáng kiến Chiang Mai là thỏa thuận hỗ trợ tài chính giữa 13 nước, mục đích là tăng cường cơ chế hỗ trợ trong khu vực để đối phó với khủng hoảng tiền tệ. Thỏa thuận này được xây dựng dựa trên Thoả thuận Swap ASEAN trước đây (ASA), nhằm bổ sung cho cơ chế hợp tác tài chính quốc tế hiện nay và góp phần ổn định tỷ giá trong khu vực.
Thỏa thuận ASA trước đây được lập năm 1977 chỉ gồm 5 nước (Indonesia, Malaysia, Philíppin, Singapore và Thái Lan). Tổng giá trị cam kết theo thỏa thuận là 200 triệu đôla – một con số không thấm vào đâu nếu so với tổng thất thoát dự trữ ngoại hối 17 tỉ đôla của 5 nước từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1997.
Thỏa thuận ASA mới theo Sáng kiến Chiang Mai có thêm Brunei và cho phép 4 nước ASEAN còn lại (gồm Campuchia, Lào, Mianma và Việt Nam) gia nhập dần dần. Yếu tố quan trọng nhất đó là nó bao gồm các thỏa thuận hoán đổi và thỏa thuận mua lại (repurchase) song phương giữa các nước ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tổng giá trị theo thỏa thuận ASA mới là 1 tỉ đôla. Tuy nhiên các cam kết của 3 nước ngoài ASEAN đối với các thỏa thuận hoán đổi song phương có thể lớn hơn nhiều. Điều này tùy thuộc vào mức độ dự trữ ngoại hối của các nước và giá trị của các hiệp định đầu tiên giữa Nhật Bản với Hàn Quốc (5 tỉ đôla) và giữa Nhật với Malaysia (2,5 tỉ đôla) theo Sáng kiến Miyazawa mới. Điều kiện sử dụng những công cụ này và một số vấn đề kỹ thuật còn cần được nhất trí thông qua thương lượng giữa các nước có liên quan. Nhưng về nguyên tắc, hỗ trợ dưới hình thức thỏa thuận hoán đổi song phương sẽ gắn với hỗ trợ của IMF và bổ sung cho các phương tiện hỗ trợ tài chính quốc tế hiện có.
1.3.2 Tiến triển của Sáng kiến Chiang Mai:
Báo cáo ngày 5/10/2001 của Bộ Tài chính Nhật Bản cho biết kết quả đàm phán song phương của Nhật với một số nước về các điều kiện của thỏa thuận hoán đổi song phương theo Sáng kiến Chiềng Mai. Tính đến thời điểm trên, Nhật Bản đã ký các hiệp định quan trọng với các nước sau:
(1) Hàn Quốc: Nhật Bản đã đạt được thỏa thuận hoán đổi đôla - won giá trị lên đến 2 tỉ đôla ngày 4/7/2001, bổ sung cho thỏa thuận hoán đổi trị giá 5 tỉ đôla theo Sáng kiến Miyazawa mới. Như vậy, nếu xét thấy cần thiết, Bộ Tài chính Nhật Bản có thể cung cấp cho Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc khoản thanh toán lên đến 2 tỉ đôla thông qua hoán đổi đôla - won. Thái Lan: Nhật Bản đã đạt được thỏa thuận hoán đổi đôla-bạt giá trị lên đến 3 tỉ đôla ngày 30/7/2001.
(2) Philíppin: Nhật Bản đã đạt được thỏa thuận hoán đổi đôla - pêsô giá trị
lên đến 3 tỉ đôla ngày 27/8/2001.
(3) Malaysia: Nhật Bản đã đạt được thỏa thuận hoán đổi đôla - ringgit giá trị lên đến 1 tỉ đôla ngày 5/10/2001, bổ sung cho thỏa thuận hoán đổi trị giá 2,5 tỉ đôla theo Sáng kiến Miyazawa mới.
Ngoài ra, Nhật và Trung Quốc vẫn tiếp tục thương lượng về thỏa thuận hoán đổi yên-nhân dân tệ. Nhật Bản sẽ tiếp tục đàm phán song phương với các nước thành viên để thiết lập mạng lưới thỏa thuận hoán đổi song phương.
Khủng hoảng EMS 1992-93 là một lời nhắc nhở: các thỏa thuận tiền tệ khu vực gắn một số đồng tiền quốc gia thông qua các biên độ tỷ giá có thể gặp phải những khó khăn nghiêm trọng kể cả khi có các thiết chế hỗ trợ. Đối với các nước đang phát triển, không dễ gì lặp lại kinh nghiệm của châu Âu, dù có hay không có sự giúp đỡ của các nước G-3. Tuy nhiên nguy cơ khủng hoảng tài chính, cùng với sự thiếu vắng các tiến bộ thực sự trong cải cách cơ cấu tài chính quốc tế đã đưa việc xây dựng các cơ chế phòng hộ tập thể ở cấp khu vực trở nên cấp thiết ở các thị trường đang nổi, nhất là Đông á. Những sáng kiến và tiến bộ nêu trên của Đông á dù còn khiêm tốn nhưng là một bước đi quan trọng trong nỗ lực hợp tác khu vực để ổn định tài chính, ngăn ngừa và hạn chế tác hại của khủng hoảng, là những tiền đề quan trọng để tiến tới một cơ chế liên kết tỷ giá chặt chẽ hơn trong tương lai.
1.4 Khả năng hình thành một ngân hàng trung ương độc lập với một chính sách tiền tệ và một đồng tiền thống nhất
Trên thực tế, khả năng hình thành một ngân hàng trung ương độc lập và một đồng tiền thống nhất ở ASEAN chưa có dấu hiệu trở thành hiện thực trong tương lai gần. ý tưởng này mặc dù đã thu hút được một sự quan tâm nào đó và đã được các cuộc họp ASEAN bàn tới nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ "nghiên cứu tính khả thi". Về khả năng hình thành một ngân hàng trung ương độc lập, ở châu á cũng đã xuất hiện đề xuất thiết lập một Viện tiền tệ châu á, tương tự như Viện tiền tệ châu Âu của EU trước đây. Viện này sẽ chịu trách nhiệm phối hợp
các chương trình cải cách và phát triển lĩnh vực tài chính tiền tệ giữa các nước thành viên. Đây sẽ là nơi cung cấp sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho các nước thành viên, tổ chức các chương trình đào tạo, là nơi để các nước thành viên đàm phán các hiệp định chung, đề ra các tiêu chuẩn trong lĩnh vực tài chính. Viện này cũng có thể sẽ tham gia vào việc thanh toán giữa các ngân hàng trung ương các nước thành viên. Tuy nhiên, đây mới chỉ là một đề xuất của các nhà nghiên cứu mà chưa hề có một biện pháp cụ thể để đưa đề xuất đó thành hiện thực.
Về đồng tiền chung, hiện các nước ASEAN đang cân nhắc hai khả năng: sử
dụng một đồng tiền bản tệ hay hình thành một đồng tiền mới.
Về khả năng lấy một đồng bản tệ trong khu vực làm đồng tiền chung thì đồng đôla Singapore được xem là "ứng cử viên sáng giá" nhất, với lý do nền kinh tế Singapore có khả năng cạnh tranh cao, dịch vụ và công nghệ cao chiếm tỷ trọng lớn, chính sách kinh tế vĩ mô thông thoáng và hiệu quả, cơ chế quản lý ngoại hối linh hoạt, dự trữ ngoại tệ và thặng dư thương mại lớn. Tuy nhiên, một số ý kiến khác cho rằng quy mô kinh tế và thị trường tài chính tiền tệ của Singapore quá nhỏ, đồng đôla Singapore chưa hoàn toàn chuyển đổi tự do nên khó có thể đảm nhận vai trò đồng tiền chung khu vực. Mặt khác, việc khu vực hoá đồng đôla Singapore sẽ làm cho quy mô lưu thông của đồng tiền này lớn hơn, gây khó khăn cho chính phủ nước này trong việc điều hành chính sách tài chính tiền tệ. Đây cũng là nguyên nhân mà chính phủ Singapore ngần ngại trong việc chấp thuận đồng tiền nước mình trở thành đồng tiền chung khu vực.
Khả năng thứ hai là hình thành một đồng tiền mới cho ASEAN như kiểu đồng Euro. Tuy nhiên, hiện nay chưa xuất hiện hình thái chuẩn bị nào cho một đồng tiền như vậy và các nước ASEAN mới chỉ tích cực nghiên cứu tìm ra giải pháp cho việc triển khai ý tưởng này dựa trên kinh nghiệm phát hành đồng Euro mà thôi.
Tóm lại, ASEAN có những tiền đề đầu tiên để hình thành một liên minh tiền tệ. Nếu đứng trên phương diện lý thuyết, nghiên cứu của các nhà kinh tế sử dụng các chỉ số tổng hợp của một khu vực tiền tệ tối ưu về mức độ tự do di chuyển các yếu tố sản xuất, mức độ linh hoạt của giá cả và tiền lương, mức độ trùng hợp của chu kỳ kinh tế và khủng hoảng, và mức độ thương mại nội bộ đã cho thấy rằng các chỉ số trên của ASEAN hiện nay tương đương với EU trước khi ký Hiệp ước Masstricht. ASEAN thậm chí còn có mức độ linh hoạt về giá cả và tiền lương cao hơn EU, và do đó khả năng điều chỉnh khi xảy ra khủng hoảng cũng nhanh hơn. Cụ thể là các nước ASEAN thường chỉ mất khoảng 2 năm để điều chỉnh và phục hồi trong khi chỉ một nửa số các cú sốc xảy ra với các nước EU được điều chỉnh trong vòng 2 năm, còn lại phải mất nhiều thời gian hơn. Các nước ASEAN cũng cho thấy có mức độ trùng hợp về chu kỳ kinh tế cao hơn các nước EU. Còn đứng trên phương diện thực tế, một sự so sánh giữa các giai đoạn phát triển của EU và ASEAN, như trên đã phân tích, cũng cho thấy rằng các nước ASEAN hoàn toàn có những điều kiện cần thiết để tạo dựng một liên minh tiền tệ. Tuy nhiên, con đường để đi đến một liên minh tiền tệ sẽ rất nhiều khó khăn, trở ngại, đòi hỏi các nước trong khu vực phải có những chính sách, biện pháp phù hợp và những bước đi cụ thể. ở thời điểm hiện tại, có thể dự kiến một lộ trình và một số biện pháp sơ bộ như sau.
II.2 Lợi ích của việc hình thành đồng tiền chung ASEAN
Như phần trên đã phân tích, tiến trình liên kết kinh tế trải qua các giai đoạn từ khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, tất yếu sẽ phát triển lên thành một liên minh kinh tế và tiền tệ. Tuy nhiên, một quá trình như vậy đòi hỏi rất nhiều nỗ lực của các nước thành viên và có thể kéo...