Download Luận án Khả năng vận dụng một số bài học kinh nghiệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Hàn Quốc vào Việt Nam hiện nay
Trong mấy thập kỷ tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thu hút vốn trong nước qua tiết kiệm đã làm gia tăng nhịp độ đầu tư ở Hàn Quốc. Đặc biệt trong những thập kỷ gần đây, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư của Hàn Quốc đã vượt giới hạn của tiêu chuẩn quốc tế. Nếu vào thập kỷ 60, tỷ lệ tiết kiệm chỉ chiếm 10%GDP, thì đến thập kỷ 90 đã tăng lên30-40% GDP [75]. Sự gia tăng tỷ lệ tiết kiệm ở Hàn Quốc là do nhiều nhân tố.
- Nhà nước cố gắng ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, thực hiện lãi suất tiết kiệm dương. Khi cho vay, lãi suất phải cao hơn lãi suất huy động. Nếu lãi suất cho vay thấp thì nhu cầu vốn tăng và sẽ sử dụng kém hiệu quả, có khi tiền cho vay bị lợi dụng nên không đến đúng đối tượng cần vay. Ở Hàn Quốc, tỷ lệ tiết kiệm tăng cao ngay cả khi nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, do bản chất tiết kiệm của người dân Hàn Quốc mang tính truyền thống.
- Trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hàn Quốc, việc tăng năng suất lao động dẫn tới tăng tốc độ thu nhập cũng làm gia tăng tỷ lệ tiết kiệm.
- Huy động nguồn vốn cho công nghiệp hoá ở Hàn Quốc có sự đóng góp to lớn của khu vực kinh tế tư nhân. Được sự nâng đỡ của nhà nước, từ những năm 70 lại đây, kinh tế tư nhân đã đóng vai trò chủ lực trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như những hoạt động kinh tế đối nội, đối ngoại. Các tổ hợp công nghiệp lớn Huyndai, GoldStar, Deawoo, SamSung của Hàn Quốc thực sự trở thành chỗ dựa và xương sống của nền kinh tế. Những tổ hợp này chiếm độc quyền trong nhiều lĩnh vực kinh tế then chốt và mở rọng phạm vi hoạt động ra nước ngoài, đặc biệt là các nước đang phát triển. Từ tiềm năng phát triển của kinh tế tư nhân có nhiều điểm đáng lưu ý so với các nwcs khác. Nhà nước chỉ phát triển các cơ sở công nghiệp mà khu vực kinh tế tư nhân không có điều kiện hay không muốn đầu tư. Như vậy, giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân không có cạnh tranh. Nhà nước không giới hạn hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân, trừ giới hạn với tư bản nước ngài và một vài ngành có tầm quan trọng đặc biệt với vận mệnh đất nước. Bên cạnh đó còn có sự liên kết tự nguyện giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân thể hiện qua các liên doanh phát triển công nghiệp.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Từ những năm 80, do nhận thức được những vấn đề bất cập này chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành một loại các biện pháp điều chỉnh cơ cấu ngành nghề nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Với các ngành nghề công nghiệp nặng và hoá chất, sự điều chỉnh được thực hiện bằng cách hợp nhất hay xoá bỏ một số dự án đầu tư và khuyến khích chuyên môn hoá theo sản phẩm. Trong công nghiệp Hàn Quốc có 5 ngày được quan tâm điều chỉnh lại cơ cấu là thiết bị điện, lắp ráp ô tô, động cơ điện, hệ thống tổng đài điện tử, động cơ diezen và luyện đồng. Các ngành này tuy được vay vốn nhưng không được hưởng lãi suất ưu đãi. Nhà nước Hàn Quốc vẫn khuyến khích đầu tư vào những ngành có triển vọng (dệt may, da giày…) theo quan điểm về lợi thế so sánh, song giữ thái độ cân bằng chữ không quá khuyến khích và không bảo hộ bằng thuế như trước đây. Cùng với việc giảm ưu tiên cho công nghiệp vừa và nhỏ là nơi cung cấp các phụ tùng, linh kiện cho công nghiệp nặng. Đồng thời việc chế tạo ra các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao và lao động lành nghề như điện tử, điện lạnh… đã giúp Hàn Quốc đạt trình độ cao hơn về cơ cấu nghiệp và duy trì sức cạnh tranh quốc tế.
* Hàn Quốc định hướng đất nước bước vào thời kỳ phát triển công nghiệp kỹ thuật công nghệ cao.
Để giải quyết vấn đề bất cập về cơ cấu kinh tế và phát triển những ngành dùng nhiều vốn, có kỹ thuật cao nhờ lợi thế nguồn lao động dồi dào, giá thấp là những thử nghiệm chủ yếu để phát triển công nghiệp của Hàn Quốc trong giai đoan này. Mục tiêu của Hàn Quốc là tiến tới các ngành công nghiệp cao cấp để đa dạng hoá hơn nữa mặt hàng và thị trường xuất khẩu. Bộ thương mại và công nghiệp (MTI) và Bộ khoa học chủ trương tăng cường các ngành công nghiệp có mức đầu tư cao gắn với công nghệ hiện đại và đã xác định mục tiêu xuất khẩu rõ ràng. Nhà nước đã trực tiếp giúp các công ty nâng cấp công nghệ sản xuất và chất lượng sản phẩm. Thán 11/1989, MTI đã đề ra chương trình 5 năm nhằm tăng gấp đôi giá trị sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao trong ngành chế tạo lên tới 200 triệu Won (1992) [85]. Chính phủ đã giúp thực hiện chương trình này bằng cả vốn vay và nhập khẩu kỹ thuật. Trong 5 năm 1990-1995, chính phủ Hàn Quốc có kế hoạch đầu tư 1 tỷ Won cho nghiên cứu và triển khai ứng dụng các ngành kỹ thuật điện tử, thông tin, sinh học đồng thời tài trợ 1 tỷ Won để xây dựng một hệ thống thông tin hiện đại, giúp các công ty sử dụng trợ giúp của máy tính và internet có hiệu quả, kịp ứng phó với biến động nhanh của tình hình kinh tế thế giới. Nhà nước có chương trình giúp đỡ về tài chính, công nghệ và marketing cho các xí nghiệp kinh doanh có triển vọng. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế Hàn Quốc là sự tập trung vào các tập đoàn lớn (hay các cheabol). Theo số liệu thống kê thì hiện nay nền kinh tế nước này đang nằm dưới quyền kiểm soát của khoảng 200 cheabol, trong đó, chủ yếu tập trung vào 30 cheabol lớn nhất. Năm 1994, ở nước này, 4 cheabol lớn nhất là Samsung, Huyndai, Daewoo và Goldstar, tuy chỉ chiếm 3% tổng số nhân công toàn quốc nhưng nắm tới 22% tài sản, 84% GDP, 60% xuất khẩu cả nước [30].
Nhà nước hỗ trợ triển khai chương trình hiện đại hoá giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vượt qua được hạn chế về quy mô, sử dụng công nghệ mới đắt tiền, ít gây ô nhiễm. Hiệp hội đẩy nhanh phát triển công nghiệp vừa và nhỏ (SMIPE) và viện kinh tế công nghệ (KIET) có nhiệm vụ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ nắm bắt kỹ thuật mới, phát huy tiềm năng của họ.
Như vậy, để đạt mục tiêu đa dạng hoá mặt hàng và thị trường xuất khẩu cũng như nâng cấp nền công nghiệp, Hàn Quốc đã tạo ra sự chuyển biến từ bên trong nền kinh tế để tạo ra hàng hoá có hàm lượng kỹ thuật ngày càng cao trên cơ sở nghiên cứu ứng dụng, đổi mới không ngừng và tiếp cận chính xác được những thông tin từ thị trường ngoài nước.
· Chính sách huy động vốn cho đầu tư phát triển và thực hiện tự do hoá đầu tư
Nhà nước đã giảm sự can thiệp vò nền kinh tế, nhằm thúc đẩy quá trình tự do hoá ngoại thương và tự do hoá hối đoái, loại dần chế độ bảo hộ mậu dịch. Các biện pháp mạnh được thực thi để kiềm chế chiều hướng lạm phát, đồng thời nhà nước giảm mạnh sự can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của tư nhân và đường lối tích cực trong thời điểm này. Chính phủ cũng tích cực thúc đẩy quá trình tự do hoá nền kinh tế và hội nhập quốc tế. Chính sách ổn định vĩ mô và tự do hoá này đã làm giảm sức ép lạm phát mà còn cải thiện vững chắc năng lực cạnh tranh quốc tế đối với sản phẩm công nghiệp của Hàn Quốc. Để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, Nhà nước đã thực hiện chương trình gồm một số nội dung sau:
+ Quản lý chặt ngân sách với việc cắt giảm chi tiêu;
+ Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt kết hợp với việc hoàn thiện chế độ cấp tín dụng có phân biệt ưu đãi.
+ Xây dựng các kế hoạch đầu tư vào công nghiệp nặng và hoá chất thích ứng với tình hình mới.
Năm 1991, vay nước ngoài của Hàn Quốc là 39,135 tỷ USD, trong đó vay dài hạn chiếm 56% [111]. Với nguồn vốn này, thường được tập trung trong đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng. Lĩnh vực này thu hồi vốn chậm nên thực hiện giải pháp vay dài hạn, hạn chế vay ngắn hạn và đặc biệt không vay thương mại. Bằng cách vay này, Hàn Quốc đã được hưởng lãi xuất thấp, việc trả hoàn nợ sẽ đỡ khó khănhơn.
Trong giai đoạn này, nhà nước không dùng phương pháp phân bổ nguồn vốn tích luỹ và các nguồn lực khác để tạo cơ cấu công nghiệp theo kế hoạch như trước đây, mà để cho các lực lượng thị trường quyết định sự hình thành cơ cấu ngành công nghiệp. Đây là điều khác biệt quan trọng so với phương pháp được áp dụng trong chiến lược tăng trưởng trước đây. Do vậy, nhà nước đã xoá bỏ các khoản vay theo chính sách trợ cấp. Điều này đã tránh đầu tư quá mức ở một số ngành công nghiệp do chính sách cấp tín dụng kiểu trợ cấp trước đây, tránh tạo ra mất cân đối và cản trở sự phát triển của hệ thống tài chính.
Một trong những hoạt động nhằm tự do hoá trong lĩnh vực tài chính giúp tự do hoá lưu thông vốn, nhà nước cho tư nhân hoá 5 ngân hàng thương mại, đồng thời giảm bớt sự cản trở đối với việc sử dụng tín dụng các ngân hàng nước ngoài. Chính phủ muốn tăng thêm sự cạnh tranh ngay trong lĩnh vực phân bổ vốn để tăng thêm tính hiệu quả sử dụng vốn.
Để thúc đẩy tự do hoá đầu tư, khi công nghiệp dân tộc đã có sự phát triển, nhà nước giảm tối đa chính sách bảo hộ công nghiệp. Đây là cách tốt nhất để các ngành công nghiệp trong nước nâng cao năng suất và chất lượng. Tro...
Download Luận án Khả năng vận dụng một số bài học kinh nghiệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Hàn Quốc vào Việt Nam hiện nay miễn phí
Trong mấy thập kỷ tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thu hút vốn trong nước qua tiết kiệm đã làm gia tăng nhịp độ đầu tư ở Hàn Quốc. Đặc biệt trong những thập kỷ gần đây, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư của Hàn Quốc đã vượt giới hạn của tiêu chuẩn quốc tế. Nếu vào thập kỷ 60, tỷ lệ tiết kiệm chỉ chiếm 10%GDP, thì đến thập kỷ 90 đã tăng lên30-40% GDP [75]. Sự gia tăng tỷ lệ tiết kiệm ở Hàn Quốc là do nhiều nhân tố.
- Nhà nước cố gắng ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, thực hiện lãi suất tiết kiệm dương. Khi cho vay, lãi suất phải cao hơn lãi suất huy động. Nếu lãi suất cho vay thấp thì nhu cầu vốn tăng và sẽ sử dụng kém hiệu quả, có khi tiền cho vay bị lợi dụng nên không đến đúng đối tượng cần vay. Ở Hàn Quốc, tỷ lệ tiết kiệm tăng cao ngay cả khi nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, do bản chất tiết kiệm của người dân Hàn Quốc mang tính truyền thống.
- Trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hàn Quốc, việc tăng năng suất lao động dẫn tới tăng tốc độ thu nhập cũng làm gia tăng tỷ lệ tiết kiệm.
- Huy động nguồn vốn cho công nghiệp hoá ở Hàn Quốc có sự đóng góp to lớn của khu vực kinh tế tư nhân. Được sự nâng đỡ của nhà nước, từ những năm 70 lại đây, kinh tế tư nhân đã đóng vai trò chủ lực trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như những hoạt động kinh tế đối nội, đối ngoại. Các tổ hợp công nghiệp lớn Huyndai, GoldStar, Deawoo, SamSung của Hàn Quốc thực sự trở thành chỗ dựa và xương sống của nền kinh tế. Những tổ hợp này chiếm độc quyền trong nhiều lĩnh vực kinh tế then chốt và mở rọng phạm vi hoạt động ra nước ngoài, đặc biệt là các nước đang phát triển. Từ tiềm năng phát triển của kinh tế tư nhân có nhiều điểm đáng lưu ý so với các nwcs khác. Nhà nước chỉ phát triển các cơ sở công nghiệp mà khu vực kinh tế tư nhân không có điều kiện hay không muốn đầu tư. Như vậy, giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân không có cạnh tranh. Nhà nước không giới hạn hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân, trừ giới hạn với tư bản nước ngài và một vài ngành có tầm quan trọng đặc biệt với vận mệnh đất nước. Bên cạnh đó còn có sự liên kết tự nguyện giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân thể hiện qua các liên doanh phát triển công nghiệp.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
ăng động hơn, nâng cao sức cạnh tranh hơn; 3) Thúc đẩy chuyên môn hoá và tổ chức lại ngành nghề; Thông qua các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh việc sử dụng tài nguyên từ ngành có hiệu quả thấp sang ngành có hiệu suất cao, chính phủ sẽ điều chỉnh cơ cấu để thúc đẩy hợp tác và tham gia các doanh nghiệp nội địa.Từ những năm 80, do nhận thức được những vấn đề bất cập này chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành một loại các biện pháp điều chỉnh cơ cấu ngành nghề nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Với các ngành nghề công nghiệp nặng và hoá chất, sự điều chỉnh được thực hiện bằng cách hợp nhất hay xoá bỏ một số dự án đầu tư và khuyến khích chuyên môn hoá theo sản phẩm. Trong công nghiệp Hàn Quốc có 5 ngày được quan tâm điều chỉnh lại cơ cấu là thiết bị điện, lắp ráp ô tô, động cơ điện, hệ thống tổng đài điện tử, động cơ diezen và luyện đồng. Các ngành này tuy được vay vốn nhưng không được hưởng lãi suất ưu đãi. Nhà nước Hàn Quốc vẫn khuyến khích đầu tư vào những ngành có triển vọng (dệt may, da giày…) theo quan điểm về lợi thế so sánh, song giữ thái độ cân bằng chữ không quá khuyến khích và không bảo hộ bằng thuế như trước đây. Cùng với việc giảm ưu tiên cho công nghiệp vừa và nhỏ là nơi cung cấp các phụ tùng, linh kiện cho công nghiệp nặng. Đồng thời việc chế tạo ra các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao và lao động lành nghề như điện tử, điện lạnh… đã giúp Hàn Quốc đạt trình độ cao hơn về cơ cấu nghiệp và duy trì sức cạnh tranh quốc tế.
* Hàn Quốc định hướng đất nước bước vào thời kỳ phát triển công nghiệp kỹ thuật công nghệ cao.
Để giải quyết vấn đề bất cập về cơ cấu kinh tế và phát triển những ngành dùng nhiều vốn, có kỹ thuật cao nhờ lợi thế nguồn lao động dồi dào, giá thấp là những thử nghiệm chủ yếu để phát triển công nghiệp của Hàn Quốc trong giai đoan này. Mục tiêu của Hàn Quốc là tiến tới các ngành công nghiệp cao cấp để đa dạng hoá hơn nữa mặt hàng và thị trường xuất khẩu. Bộ thương mại và công nghiệp (MTI) và Bộ khoa học chủ trương tăng cường các ngành công nghiệp có mức đầu tư cao gắn với công nghệ hiện đại và đã xác định mục tiêu xuất khẩu rõ ràng. Nhà nước đã trực tiếp giúp các công ty nâng cấp công nghệ sản xuất và chất lượng sản phẩm. Thán 11/1989, MTI đã đề ra chương trình 5 năm nhằm tăng gấp đôi giá trị sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao trong ngành chế tạo lên tới 200 triệu Won (1992) [85]. Chính phủ đã giúp thực hiện chương trình này bằng cả vốn vay và nhập khẩu kỹ thuật. Trong 5 năm 1990-1995, chính phủ Hàn Quốc có kế hoạch đầu tư 1 tỷ Won cho nghiên cứu và triển khai ứng dụng các ngành kỹ thuật điện tử, thông tin, sinh học đồng thời tài trợ 1 tỷ Won để xây dựng một hệ thống thông tin hiện đại, giúp các công ty sử dụng trợ giúp của máy tính và internet có hiệu quả, kịp ứng phó với biến động nhanh của tình hình kinh tế thế giới. Nhà nước có chương trình giúp đỡ về tài chính, công nghệ và marketing cho các xí nghiệp kinh doanh có triển vọng. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế Hàn Quốc là sự tập trung vào các tập đoàn lớn (hay các cheabol). Theo số liệu thống kê thì hiện nay nền kinh tế nước này đang nằm dưới quyền kiểm soát của khoảng 200 cheabol, trong đó, chủ yếu tập trung vào 30 cheabol lớn nhất. Năm 1994, ở nước này, 4 cheabol lớn nhất là Samsung, Huyndai, Daewoo và Goldstar, tuy chỉ chiếm 3% tổng số nhân công toàn quốc nhưng nắm tới 22% tài sản, 84% GDP, 60% xuất khẩu cả nước [30].
Nhà nước hỗ trợ triển khai chương trình hiện đại hoá giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vượt qua được hạn chế về quy mô, sử dụng công nghệ mới đắt tiền, ít gây ô nhiễm. Hiệp hội đẩy nhanh phát triển công nghiệp vừa và nhỏ (SMIPE) và viện kinh tế công nghệ (KIET) có nhiệm vụ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ nắm bắt kỹ thuật mới, phát huy tiềm năng của họ.
Như vậy, để đạt mục tiêu đa dạng hoá mặt hàng và thị trường xuất khẩu cũng như nâng cấp nền công nghiệp, Hàn Quốc đã tạo ra sự chuyển biến từ bên trong nền kinh tế để tạo ra hàng hoá có hàm lượng kỹ thuật ngày càng cao trên cơ sở nghiên cứu ứng dụng, đổi mới không ngừng và tiếp cận chính xác được những thông tin từ thị trường ngoài nước.
· Chính sách huy động vốn cho đầu tư phát triển và thực hiện tự do hoá đầu tư
Nhà nước đã giảm sự can thiệp vò nền kinh tế, nhằm thúc đẩy quá trình tự do hoá ngoại thương và tự do hoá hối đoái, loại dần chế độ bảo hộ mậu dịch. Các biện pháp mạnh được thực thi để kiềm chế chiều hướng lạm phát, đồng thời nhà nước giảm mạnh sự can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của tư nhân và đường lối tích cực trong thời điểm này. Chính phủ cũng tích cực thúc đẩy quá trình tự do hoá nền kinh tế và hội nhập quốc tế. Chính sách ổn định vĩ mô và tự do hoá này đã làm giảm sức ép lạm phát mà còn cải thiện vững chắc năng lực cạnh tranh quốc tế đối với sản phẩm công nghiệp của Hàn Quốc. Để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, Nhà nước đã thực hiện chương trình gồm một số nội dung sau:
+ Quản lý chặt ngân sách với việc cắt giảm chi tiêu;
+ Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt kết hợp với việc hoàn thiện chế độ cấp tín dụng có phân biệt ưu đãi.
+ Xây dựng các kế hoạch đầu tư vào công nghiệp nặng và hoá chất thích ứng với tình hình mới.
Năm 1991, vay nước ngoài của Hàn Quốc là 39,135 tỷ USD, trong đó vay dài hạn chiếm 56% [111]. Với nguồn vốn này, thường được tập trung trong đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng. Lĩnh vực này thu hồi vốn chậm nên thực hiện giải pháp vay dài hạn, hạn chế vay ngắn hạn và đặc biệt không vay thương mại. Bằng cách vay này, Hàn Quốc đã được hưởng lãi xuất thấp, việc trả hoàn nợ sẽ đỡ khó khănhơn.
Trong giai đoạn này, nhà nước không dùng phương pháp phân bổ nguồn vốn tích luỹ và các nguồn lực khác để tạo cơ cấu công nghiệp theo kế hoạch như trước đây, mà để cho các lực lượng thị trường quyết định sự hình thành cơ cấu ngành công nghiệp. Đây là điều khác biệt quan trọng so với phương pháp được áp dụng trong chiến lược tăng trưởng trước đây. Do vậy, nhà nước đã xoá bỏ các khoản vay theo chính sách trợ cấp. Điều này đã tránh đầu tư quá mức ở một số ngành công nghiệp do chính sách cấp tín dụng kiểu trợ cấp trước đây, tránh tạo ra mất cân đối và cản trở sự phát triển của hệ thống tài chính.
Một trong những hoạt động nhằm tự do hoá trong lĩnh vực tài chính giúp tự do hoá lưu thông vốn, nhà nước cho tư nhân hoá 5 ngân hàng thương mại, đồng thời giảm bớt sự cản trở đối với việc sử dụng tín dụng các ngân hàng nước ngoài. Chính phủ muốn tăng thêm sự cạnh tranh ngay trong lĩnh vực phân bổ vốn để tăng thêm tính hiệu quả sử dụng vốn.
Để thúc đẩy tự do hoá đầu tư, khi công nghiệp dân tộc đã có sự phát triển, nhà nước giảm tối đa chính sách bảo hộ công nghiệp. Đây là cách tốt nhất để các ngành công nghiệp trong nước nâng cao năng suất và chất lượng. Tro...