ĐƯA THỰC VẬT THỦY SINH VÀO HỆ THỐNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN ĐỂ LÀM SẠCH MÔI TRƯỜNG NƯỚC.
LÊ QUỐC TUẤN*, TRẦN THỊ THANH HƯƠNG**
*Khoa Công Nghệ Môi Trường - Đại Học Nông Lâm TP. HCM
**Khoa Khoa Học Cơ Bản - Đại Học Nông Lâm TP. HCM
1. Đặt vấn đề
Do hoạt động sống và sản xuất của con người cùng với mật độ dân số gia tăng nhanh chóng, các nguồn nước thải, nước mặt và cả nguồn nước ngầm ở nhiều vùng đã bị ô nhiễm đến mức báo động. Trong các tác nhân gây ô nhiễm, ngoài các chất độc như thuốc trừ sâu, diệt cỏ, kim loại nặng, còn có các hợp chất hữu cơ chứa nitrogen, phosphorus. Các hợp chất này trong nước mặt, đặc biệt là trong các nguồn nước dùng để nuôi thủy sản và cho sinh hoạt ở các dạng như NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup], NO[sub]3[/sub][sup]-[/sup], PO[sub]4[/sub][sup]3-[/sup] có độc tính cấp và lâu dài đối với thủy động vật nuôi và con người.
Để loại bỏ các thành phần ô nhiễm này từ các nguồn nước, người ta đã phát triển công nghệ xử lý dựa vào hoạt động của các nhóm vi khuẩn chuyển hóa nitrogen hay sử dụng các hệ tự nhiên với sự tham gia của các vi sinh vật và thực vật thủy sinh [9].
Ở nước ta, trong nuôi trồng thuỷ sản, một vài cơ sở sản xuất giống đã sử dụng kỹ thuật lọc sinh học để khử NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup] [2] và một số cơ sở nghiên cứu thuỷ sản đang xây dựng các hệ thống lọc tự nhiên liên hợp ở các đầm nuôi tôm cá nước lợ. Tại một số nơi, nhiều diện tích đang được sử dụng để nuôi tôm, cá và các loài thuỷ sản khác. Ở những nơi này tình trạng ô nhiễm môi trường nước các ao nuôi đã trở thành một trong những nguyên nhân gây dịch bệnh – nguy cơ chủ yếu đối với nghề này. Không những thế mà còn gây ảnh hưởng xấu đến các vùng nước ven bờ hay những con sông tiếp nhận nguồn nước nuôi này.
Vì vậy, việc nghiên cứu tuyển chọn một số loài thực vật thuỷ sinh có khả năng loại bỏ nitrogen và phosphorus liên kết và thiết kế một hệ thống các ao nuôi liên hợp để làm sạch các ao nuôi thuỷ sản cho từng địa bàn là cần thiết.
Trong báo cáo này chúng tui trình bày kết quả nghiên cứu bước đầu về hoạt động trao đổi nitrogen và phosphorus liên kết của hai loài thực vật thuỷ sinh đang phát triển ưu thế ở các vùng nuôi nước ngọt, đồng thời thiết kế mô hình xử lý tự nhiên với sự tham gia của thực vật thuỷ sinh trong hệ thống nuôi trồng thuỷ sản.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là 2 loài thực vật thuỷ sinh nước ngọt: rong đuôi chồn (Ceratophyllum demersum); rong mái chèo (Valisneria spiralis) thường tập trung ở lưu vực các sông hay trong các ao nuôi thuỷ sản. Các đối tượng nghiên cứu được nuôi trong môi trường BG11 pha loãng 4 lần (BG11/4) và trong hệ thống tuần hoàn nước dưới ánh sáng đèn neon. Các chỉ số thuỷ lý hoá được xác định theo phương pháp tiêu chuẩn ; hàm lượng NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup] được xác định bằng phương pháp so màu với thuốc thử Nessler; hàm lượng PO[sub]4[/sub][sup]3-[/sup] được xác định bằng phương pháp so màu với thuốc thử vanadate molipdate; hàm lượng NO[sub]3[/sub][sup]-[/sup] được xác định bằng phương pháp so màu với thuốc thử sodium salicilate. Cường độ ánh sáng được xác định bằng máy Lux-meter Tostotem 0500, hàm lượng oxy hoà tan được xác định bằng máy OSI (Pháp); cường độ quang hợp được xác định dựa vào động thái thải oxy được ghi trên máy đo quang hợp. Chlorophyll được xác định theo phương pháp của Lorenze và cộng sự .
3. Kết quả nghiên cứu và bàn luận
3.1. Khả năng loại bỏ NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup], NO[sub]3[/sub][sup]-[/sup], PO[sub]4[/sub][sup]3-[/sup] của thực vật thuỷ sinh.
Đã tiến hành nuôi 10g rong tươi trong 1 lít môi trường BG11/4 (không ammonium) với các hàm lượng NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup], NO[sub]3[/sub][sup]-[/sup], PO[sub]4[/sub][sup]3-[/sup] ở nhiệt độ 28-30[sup]0[/sup]C dưới ánh sáng có cường độ 4000 lux. Sau 24 giờ nuôi (12 giờ chiếu sáng, 12 không có ánh sáng-ban đêm), tiến hành xác định hàm lượng NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup], NO[sub]3[/sub][sup]-[/sup], PO[sub]4[/sub][sup]3-[/sup] còn lại trong dịch nuôi.
3.1.1. Khả năng loại bỏ NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup]
Với lượng NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup] được bổ sung vào môi trường từ 15, 30, 60 và 90 mg/l, sau 24 giờ tiến hành xác định NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup] còn lại trong dịch nuôi. Kết quả của một đợt thí nghiệm điển hình được trình bày ở bảng 1.
Bảng 1: Khả năng loại bỏ NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup] trong 24 giờ của hai loài thực vật thuỷ sinh
LÊ QUỐC TUẤN*, TRẦN THỊ THANH HƯƠNG**
*Khoa Công Nghệ Môi Trường - Đại Học Nông Lâm TP. HCM
**Khoa Khoa Học Cơ Bản - Đại Học Nông Lâm TP. HCM
1. Đặt vấn đề
Do hoạt động sống và sản xuất của con người cùng với mật độ dân số gia tăng nhanh chóng, các nguồn nước thải, nước mặt và cả nguồn nước ngầm ở nhiều vùng đã bị ô nhiễm đến mức báo động. Trong các tác nhân gây ô nhiễm, ngoài các chất độc như thuốc trừ sâu, diệt cỏ, kim loại nặng, còn có các hợp chất hữu cơ chứa nitrogen, phosphorus. Các hợp chất này trong nước mặt, đặc biệt là trong các nguồn nước dùng để nuôi thủy sản và cho sinh hoạt ở các dạng như NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup], NO[sub]3[/sub][sup]-[/sup], PO[sub]4[/sub][sup]3-[/sup] có độc tính cấp và lâu dài đối với thủy động vật nuôi và con người.
Để loại bỏ các thành phần ô nhiễm này từ các nguồn nước, người ta đã phát triển công nghệ xử lý dựa vào hoạt động của các nhóm vi khuẩn chuyển hóa nitrogen hay sử dụng các hệ tự nhiên với sự tham gia của các vi sinh vật và thực vật thủy sinh [9].
Ở nước ta, trong nuôi trồng thuỷ sản, một vài cơ sở sản xuất giống đã sử dụng kỹ thuật lọc sinh học để khử NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup] [2] và một số cơ sở nghiên cứu thuỷ sản đang xây dựng các hệ thống lọc tự nhiên liên hợp ở các đầm nuôi tôm cá nước lợ. Tại một số nơi, nhiều diện tích đang được sử dụng để nuôi tôm, cá và các loài thuỷ sản khác. Ở những nơi này tình trạng ô nhiễm môi trường nước các ao nuôi đã trở thành một trong những nguyên nhân gây dịch bệnh – nguy cơ chủ yếu đối với nghề này. Không những thế mà còn gây ảnh hưởng xấu đến các vùng nước ven bờ hay những con sông tiếp nhận nguồn nước nuôi này.
Vì vậy, việc nghiên cứu tuyển chọn một số loài thực vật thuỷ sinh có khả năng loại bỏ nitrogen và phosphorus liên kết và thiết kế một hệ thống các ao nuôi liên hợp để làm sạch các ao nuôi thuỷ sản cho từng địa bàn là cần thiết.
Trong báo cáo này chúng tui trình bày kết quả nghiên cứu bước đầu về hoạt động trao đổi nitrogen và phosphorus liên kết của hai loài thực vật thuỷ sinh đang phát triển ưu thế ở các vùng nuôi nước ngọt, đồng thời thiết kế mô hình xử lý tự nhiên với sự tham gia của thực vật thuỷ sinh trong hệ thống nuôi trồng thuỷ sản.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là 2 loài thực vật thuỷ sinh nước ngọt: rong đuôi chồn (Ceratophyllum demersum); rong mái chèo (Valisneria spiralis) thường tập trung ở lưu vực các sông hay trong các ao nuôi thuỷ sản. Các đối tượng nghiên cứu được nuôi trong môi trường BG11 pha loãng 4 lần (BG11/4) và trong hệ thống tuần hoàn nước dưới ánh sáng đèn neon. Các chỉ số thuỷ lý hoá được xác định theo phương pháp tiêu chuẩn ; hàm lượng NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup] được xác định bằng phương pháp so màu với thuốc thử Nessler; hàm lượng PO[sub]4[/sub][sup]3-[/sup] được xác định bằng phương pháp so màu với thuốc thử vanadate molipdate; hàm lượng NO[sub]3[/sub][sup]-[/sup] được xác định bằng phương pháp so màu với thuốc thử sodium salicilate. Cường độ ánh sáng được xác định bằng máy Lux-meter Tostotem 0500, hàm lượng oxy hoà tan được xác định bằng máy OSI (Pháp); cường độ quang hợp được xác định dựa vào động thái thải oxy được ghi trên máy đo quang hợp. Chlorophyll được xác định theo phương pháp của Lorenze và cộng sự .
3. Kết quả nghiên cứu và bàn luận
3.1. Khả năng loại bỏ NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup], NO[sub]3[/sub][sup]-[/sup], PO[sub]4[/sub][sup]3-[/sup] của thực vật thuỷ sinh.
Đã tiến hành nuôi 10g rong tươi trong 1 lít môi trường BG11/4 (không ammonium) với các hàm lượng NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup], NO[sub]3[/sub][sup]-[/sup], PO[sub]4[/sub][sup]3-[/sup] ở nhiệt độ 28-30[sup]0[/sup]C dưới ánh sáng có cường độ 4000 lux. Sau 24 giờ nuôi (12 giờ chiếu sáng, 12 không có ánh sáng-ban đêm), tiến hành xác định hàm lượng NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup], NO[sub]3[/sub][sup]-[/sup], PO[sub]4[/sub][sup]3-[/sup] còn lại trong dịch nuôi.
3.1.1. Khả năng loại bỏ NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup]
Với lượng NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup] được bổ sung vào môi trường từ 15, 30, 60 và 90 mg/l, sau 24 giờ tiến hành xác định NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup] còn lại trong dịch nuôi. Kết quả của một đợt thí nghiệm điển hình được trình bày ở bảng 1.
Bảng 1: Khả năng loại bỏ NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup] trong 24 giờ của hai loài thực vật thuỷ sinh
Thực vật thuỷ sinh | Hàm lượng NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup]-N (mg/l) | Hàm lượng NH[sub]4[/sub][sup]+[/sup] được loại bỏ | Hiệu suất (%) |