phuongtam_c8
New Member
Download miễn phí Đề tài Kịch bản và vai trò của kịch bản trong sáng tạo tác phẩm phỏng vấn truyền hình
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU1
I. Kịch bản truyền hình3
1. Khái niệm kịch bản3
2. Nguồn gốc kịch bản5
3. Đặc điểm của kịch bản6
4. Kịch bản phỏng vấn truyền hình
II. Vai trò của kịch bản trong sáng tạo tác phẩm phỏng vấn truyền hình
1. Phỏng vấn truyền hình
1.1. Khái niệm phỏng vấn truyền hình
1.2. Vai trò và đặc điểm của phỏng vấn truyền hình
1.2.1. Vai trò
1.2.2. Đặc điểm
1.3. Các dạng phỏng vấn truyền hình
1.4. Nghệ thuật phỏng vấn trên truyền hình
2. Vai trò của kịch bản
LỜI KẾT
Kịch bản phỏng vấn truyền hình mẫu
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2014-01-21-de_tai_kich_ban_va_vai_tro_cua_kich_ban_trong_sang.xxA1jDL1Zn.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-56069/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
ụng, vai trò, chức năng của kịch bản.So với các loại hình nghệ thuật như hội hoạ, thơ văn, điêu khắc…; một đặc trưng là từ khâu ý đồ sáng tác đến khi hoàn thành tác phẩm có thể do công lao của người nghệ sỹ, cá nhân người nghệ sỹ. Đó là những sản phẩm tinh thần của mỗi cá nhân nghệ ỹ trước những biến đổi của cuộc đời… Trong khi đó kịch (kịch nói, kịch truyền thống), điện ảnh lại là một sản phẩm của tập thể, của sự nỗ lực đóng góp của diễn viên, tác giả kịch bản, quay phim, hoạ sỹ trang trí, hoạ sỹ, người làm hậu trường… dưới sự chỉ đạo của đạo diễn. Tác phẩm truyền hình qua góp sức của đạo diễn, biên tập, cộng tác viên, kỹ thuật viên. Người tham gia làm ra sản phẩm đều phải tập trung góp sức để tạo ra sản phẩm hay nhất, tốt nhất. Đối với tính chất làm việc tập thể này sự có mặt của kịch bản là hết sức có ý nghĩa. Kịch bản trước hết đề ra đề cương tác phẩm, thứ hai kịch bản đóng vai rò như một yếu tố liên hệ giữa cá nhân có liên quan đến công việc, liên hệ giữa yếu tố kỹ - nghệ thuật thống nhất thanh một phương tiện biểu hiện ăn khớp tạo nên một sản phẩm hoàn hảo.
Kịch bản là một vở kịch, một bộ phim, một chương trình được phác hình hoá, trên văn bản là mọt đề cương hay chi tiết đến từ những chi tiết nhỏ (tuỳ theo yêu cầu của mỗi loại hình), là cơ sở chính cho tập thể tác giả làm nên, hoàn thiện tác phẩm của mình.
2. Nguồn gốc kịch bản.
Theo định nghĩa trên thì kịch bản là “một vở kịch dạng văn bản”, kịch bản ra đời cùng với sự xuất hiện của loại hình kịch (hay cách kịch).
Kịch thường được hiểu vừa theo nghĩa “là một loại hình nghệ thuật sân khấu vừa có nghĩa là một kịch bản văn học”.
Như vậy, nguồn gốc của kịch bản truyền hình là kịch bản văn học. Nghiên cứu kịch bản văn học qua cách kịch. Là một thể loại văn học nằm trong thể loại kịch, tác phẩm kịch nói chỉ thực sự được khai thác trọn vẹn khi được trình diễn trên sân khấu. Kịch cũng là một loại hình sân khấu. Sau lao động của nhà văn - người sáng tác kịch bản văn học là chặng đường sáng tạo thứ hai của đội ngũ nghệ sỹ sân khấu gồm đạo diễn, diễn viên, hoạ sỹ sân khấu, nhạc sỹ. Bằng những ưu thế riêng của dàn dựng, diễn xuất, âm nhạc, trang trí…; họ đã tái hiện sinh động, trực tiếp nội dung của kịch bản văn học trên sân khấu. Kịch bản văn học có đầy đủ những đặc trưng riêng trong cấu trúc hình tượng, trong cách thể hiện, trong ngôn ngữ nghệ thuật nên người ta vẫn có thể thưởng thức tác phẩm kịch bằng cách đọc kịch bản văn học. Khác với kịch múa, kịch hát, kịch sân khấu truyền thống (như chèo, tuồng, cải lương)… là những loại hình chỉ có thể thưởng thức được nếu chúng được trình diễn trên sân khấu. Bởi lẽ, phương tiện chủ yếu của những loại hình này mang tính đặc thù cao: những động tác múa nếu đó là kịch múa, là làn điệu đó là kịch hát. Tuy nhiên, kịch bản không thể thay thế và bộc lộ được đầy đủ vẻ đẹp của một tác phẩm kịch như được trình diễn trên sân khấu. Các nhà viết kịch nổi tiếng trên thế giới như Molie, Seechspia hay những nhà văn chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm kịch bản văn học như Gôgôn, Seekhốp, Gorki… đều thừa nhận mối liên hệ mật thiết giữa kịch bản văn học với bộ môn nghệ thuật sân khấu, trong đó kịch bản văn học là linh hồn là cái gốc của sự thành công. Vì thế, việc tìm hiểu những đặc trưng của kịch bản văn học theo hướng tiếp cận từ phía sân khấu là hợp lý nhất.
Cũng như các loại hình sân khấu khác, đặc trưng của kịch không thoát ly khỏi những điều kiện sân khấu và giới hạn về mặt không gian, thời gian của khối lượng sự kiện, khối lượng nhân vật. Tác phẩm kịch không chứa một nội dung thông tin lớn, bề bộn như tiểu thuyết, cũng không lắng lại trong những mạch truyền cảm xúc như thơ trữ tình. Gạt đi tất cả những rườm rà tản mạn không thích hợp với sân khấu, kịch lựa chọn những xung đột, mâu thuẫn trong đời sống thực để mô tả.
3. Đặc điểm của kịch bản
Một phóng viên viết đi đến cơ sở, thu thập tin tức, viết tin… mọi hoạt động sáng tạo của nhà báo đều mang tính chất cá nhân. Họ viết thông tin ra giấy bằng phương tiện ngôn ngữ chữ viết đơn thuần. Và bài báo hoàn thành, dẫu sao công việc cũng đơn giản.
Làm một chương trình truyền hình cho dù là một bản tin ngắn cũng phải qua các khâu: xác định đề tài, phác thảo nội dung, lựa chọn góc quay sao cho thích hợp với nội dung đã chuẩn bị trước. Cuối cùng là sắp xếp các cảnh quay để tạo thành những câu bình nối tiếp nhau logic. Dựa trên ý nghĩa đề tài của các cảnh để viết lời bình.
Bất kỳ một tác phẩm truyền hình nào cũng là sản phẩm của tập thể, là kết quả đóng góp của các thành viên: quay phim, đạo diễn, biên tập dựng phim. Vậy làm thế nào để có sự thống nhất giữa các khâu và tập thể tác giả đó? Về mặt này truyền hình đã học tập kinh nghiệm điện ảnh: kịch bản truyền hình.
Kịch bản có thể coi như xương sống của một sản phẩm truyền hình. Mỗi thể loại truyền hình lại có những kịch bản mang đặc trưng, tính chất riêng, phù hợp với thể loại đó.
Kịch bản báo chí truyền hình mang tính dự báo, dự kiến chứ không phải ở dạng ổn định. Bởi vì phần lớn các chi tiết trong kịch bản đều là những dự kiến của phóng viên về những cái sắp xảy ra trong một tương lai gần. Mặt khác, nó không được hư cấu. Vì vậy, nó luôn dựa trên cơ sở người thật, việc thật.
Kịch bản truyền hình bao giờ cũng dự kiến được những nét chung nhất của vấn đề mà nó đề cập. Các sự kiện, vấn đề, đặc biệt là những chi tiết của các sự kiện, vấn đề mà truyền hình đề cập thường hay thay đổi. Thông thường cho đến lúc dựng được một tác phẩm hay chương trình truyền hình thì bản thân tác phẩm và chương trình đó có khác nhiều so với kịch bản lúc đầu. Vì thế mà có nhiều kịch bản chỉ hoàn thiện sau khi đưa vào giai đoạn hậu kỳ.
Kịch bản báo chí truyền hình được xây dựng trên cơ sở các sự kiện có thật và nghệ thuật rát nối các sự kiện bằng tư duy logic của tác giả. Nó thường được thể hiện dưới dạng: vừa là kịch bản văn học, vừa là kịch bản đạo diễn, trong kịch bản toát lên toàn bộ nôi dung của tác phẩm và biện pháp thể hiện tác phẩm. Kịch bản truyền hình được sử dụng tất cả các biện pháp nghệ thuật của kịch bản điện ảnh để thể hiện tác phẩm nhưng chất liệu của nó là những sự kiện, con người… có thật không được hư cấu. Hơn nữa, nó được viết ra nó được viết ra ở dạng đề cương và sử dụng trong phạm vi hẹp nên nó không được thưởng thức như một tác phẩm điện ảnh hay tác phẩm văn học nói chung.
Kịch bản ngoài những tác dụng là “kim chỉ nam” cho hoạt động của phóng viên và quay phim, là “linh hồn” cho tập thể làm phim giúp cho tác phẩm có chủ đề tư tưởng, đối tượng phục vụ, cách thể hiện tác phẩm rõ ràng, rành mạch… Kịch bản còn là căn cứ để...