lovely_bear199
New Member
Download miễn phí Tiểu luận Kỹ năng của Luật sư trong hoạt động thu thập, nghiên cứu, đánh giá sử dụng chứng cứ trong các vụ án tranh chấp đất đai
Đặc trưng cơ bản khi xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai là
phải có sự phân biệt giữa thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất
của Tòa án và thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của các cơ quan
hành chính (theo quy định của Luật đất đai năm 2003). Đồng thời để xác định chính
xác thẩm quyền cũng phải phân biệt rõ tranh chấp vềquyền sử dụng đất thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự với các quan hệ khiếu kiện
liên quan đến quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ
tục tố tụng hành chính.
Cơ sở để xác định chính xác thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục
tố tụng dân sự, trước tiên cần dựa trên việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp
của vụ án thuộc loại tranh chấp đất đai nào. Theo quy định của Luật đất đai năm
2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đainăm 2003, Thẩm quyền giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự thuộc
các quan hệ tranh chấp nằm một trong 3 nhóm tranh chấp quyền sử dụng đất sau:
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2014-01-21-tieu_luan_ky_nang_cua_luat_su_trong_hoat_dong_thu.QS1Ow1Vyl8.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-56389/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
đó nông dân không có đất sản xuất, một số hộ trước khi vào tập đoàn, hợp tác xã có
đất, đến khi giải thể họ không có đất để canh tác. Một số hộ thực hiện chính sách
"nhường cơm sẻ áo" của Nhà nước trong những năm 1981-1986 đã nhường đất cho
những người khác sử dụng, nay đòi lại... ở miền nam, Nhà nước thực hiện chính
sách cải tạo công thương nghiệp, quốc hữu hóa đất đai, nhà cửa, tư liệu sản xuất của
địa chủ, tư bản và tay sai chế độ cũ hay giao nhà cửa, đất đai cho người khác sử
dụng, đến nay do có sự hiểu lầm về chính sách họ cũng đòi lại những người đang
quản lý, sử dụng.
Kỹ năng Luật sư trong hoạt động thu thập, nghiên cứu, đánh giá, sử dụng chứng cứ
trong vụ án Tranh chấp đất đai
LSMN 7.2B - 3 -
Ngoài ra, một số người bỏ đi nơi khác ở, ra nước ngoài sinh sống cũng trở về
đòi lại đất đai, tài sản trước đây của họ đã được giao cho người khác quản lý, sử
dụng.
• Tranh chấp giữa những người làm nghề thủ công, nay thất nghiệp trở
về đòi lại ruộng của những người làm nông nghiệp: Những người làm nghề thủ
công trước đây đã được phân ruộng để sản xuất, để ở, sau đó họ không sản xuất
nông nghiệp nữa hay chuyển đi nơi khác để làm nghề, đến nay họ trở về đòi lại đất
để sản xuất, để ở.
• Tranh chấp đòi lại đất, tài sản của nhà thờ, các dòng tu, chùa chiền,
miếu mạo, nhà thờ họ. Dạng tranh chấp này thường xảy ra như sau: Trước đây do
hoàn cảnh lịch sử, chính quyền địa phương đã mượn đất của các cơ sở nói trên để sử
dụng hay tịch thu một số cơ sở để làm trụ sở cơ quan, trường học... đến nay các cơ
sở đó đòi lại nhưng Nhà nước không trả lại được nên dẫn đến khiếu kiện của các cơ
sở đó.
Ngoài ra, trong những trường hợp nói trên, một số người được các nhà thờ,
dòng tu, chùa chiền, nhà thờ họ cho đất để ở họ đã xây dựng nhà kiên cố, hay lấn
chiếm thêm đất của các cơ sở nói trên dẫn đến việc các cơ sở nói trên đòi lại đất,
nhà.
• Tranh chấp đòi lại nhà, đất cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ: Dạng
tranh chấp này phát sinh do việc một bên cho bên kia mượn đất, thuê đất, cho ở
nhờ. Có vụ cho mượn, thuê gần đây, có vụ cho mượn, thuê cách đây vài chục năm
(nhất là ở miền nam). Trong nhiều trường hợp không làm hợp đồng, chỉ giao kết
bằng miệng dẫn đến khi bên cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ hay là hết hạn hợp
đồng, hay đòi lại, bên mượn, thuê, ở nhờ đã xây dựng nhà kiên cố, một số có tên
trong sổ địa chính hay được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) thì
việc tranh chấp này càng trở nên phức tạp, dẫn đến việc công dân khiếu kiện lên cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ.
Tranh chấp QSDĐ, tài sản gắn liền với QSDĐ khi vợ chồng ly hôn: Đây
là trường hợp tranh chấp đất hay tài sản gắn liền với QSDĐ khi vợ chồng ly hôn.
Đất tranh chấp có thể là đất nông nghiệp, lâm nghiệp hay đất để ở; có thể là giữa
vợ chồng với nhau hay giữa một bên ly hôn với hộ gia đình vợ hay chồng hay có
thể xảy ra khi bố mẹ cho con đất, đến khi con ly hôn thì cha mẹ đòi lại...
Tranh chấp về quyền thừa kế QSDĐ, tài sản gắn liền với QSDĐ: Đây là
dạng tranh chấp do người có QSDĐ, tài sản gắn liền với đất chết mà không để lại di
chúc, hay để lại di chúc không phù hợp với quy định của pháp luật và những người
hưởng thừa kế không thỏa thuận được với nhau về phân chia thừa kế hay thiếu
hiểu biết về pháp luật dẫn đến tranh chấp.
Tranh chấp giữa những người sử dụng với nhau về ranh giới giữa các
vùng đất được phép sử dụng và quản lý: Đây là tranh chấp về ranh giới. Loại
tranh chấp này thường do một bên tự ý thay đổi ranh giới hay hai bên không xác
định được với nhau về ranh giới, một số trường hợp chiếm luôn diện tích đất của
người khác. Những trường hợp tranh chấp này xảy ra thường do ranh giới đất giữa
Kỹ năng Luật sư trong hoạt động thu thập, nghiên cứu, đánh giá, sử dụng chứng cứ
trong vụ án Tranh chấp đất đai
LSMN 7.2B - 4 -
những người sử dụng đất liền kề không rõ ràng, đất này thường sang nhượng nhiều
lần, bàn giao không rõ ràng.
Ngoài ra, việc tranh chấp ranh giới xảy ra nhiều khi do lỗi của các cơ quan
nhà nước, đó là khi cấp đất, cơ quan cấp đất có ghi diện tích, nhưng không đo đạc
cụ thể khi giao đất chỉ căn cứ vào giấy cấp đất và đơn kê khai diện tích của đương
sự. Sau này khi đương sự đo lại thấy diện tích đất ít hơn so với quyết định cấp đất
cũng như giấy chứng nhận QSDĐ hay khi cấp giấy chứng nhận QSDĐ có phần
diện tích chồng lên nhau. Do đó cũng gây nên tranh chấp giữa các hộ liền kề nhau.
Khi giải quyết tranh chấp, các cơ quan có thẩm quyền phải xác định phần đất tranh
chấp đó là thuộc quyền sử dụng của ai.
Tranh chấp giữa đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới với đồng bào
dân tộc sở tại: Đây là dạng tranh chấp thường xảy ra ở vùng Tây Nguyên. Việc di
dân, đặc biệt là di dân tự do khi đến nơi ở mới không phải lúc nào chính quyền sở
tại cũng cấp đất cho người dân di cư, dẫn đến việc người mới đến phá rừng, lấn
chiếm đất đai dẫn đến tranh chấp với đồng bào dân tộc sở tại.
Tranh chấp giữa các nông trường, lâm trường và các tổ chức sử dụng
đất khác với nhân dân địa phương: Do cơ chế trước đây nên dẫn đến tình trạng
các nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội bao chiếm một lượng lớn đất đai,
không sử dụng hết để đất bỏ hoang hay cho người dân sử dụng theo hình thức phát
canh, thu tô. Mặt khác, nhiều nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội quản lý
đất đai lỏng lẻo dẫn đến tình trạng người dân chiếm đất để sử dụng. Do đó cũng dẫn
đến tranh chấp đất đai.
1.1.2. Các tranh chấp đất đai trong đó người sử dụng đất đã sử dụng đất
hợp pháp.
Tranh chấp chỉ phát sinh trong quá trình người đó thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình. Trong các dạng tranh chấp này thì người đang SDĐ đã sử dụng hợp
pháp đất, không có ai tranh chấp. Tuy nhiên, khi sử dụng quyền và nghĩa vụ SDĐ
của mình như: Thực hiện các giao dịch về dân sự, hay do chủ trương, chính sách
của Nhà nước như giải tỏa, trưng dụng, trưng mua hay do người khác gây thiệt hại,
hay bị hạn chế về quyền và nghĩa vụ SDĐ của mình mà dẫn đến tranh chấp. Có các
dạng sau:
Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại
quyền SDĐ, thế chấp hay bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền SDĐ.
Tranh chấp do người khác gây thiệt hại hay hạn chế quyền và nghĩa vụ phát
sinh trong quá trình SDĐ.
Tranh chấp về mục đích sử dụng, đặc biệt là tranh chấp về đất nông nghiệp
với đất lâm nghiệp, giữa đất trồng lúa với đất nuôi tôm, giữa đất trồng cao su với
đất trồng cà phê, giữa đất nông nghiệp với đất thổ cư trong quá trình phân bố và quy
hoạch sử dụng. Trong thực tế trường h