Download Luận văn miễn phí
MỞ ĐẦU
Ngày nay, nghề nuôi trồng nấm ở nước ta đã và đang phát triển mạnh mẽ và đang tiến tới hình thành các cơ sở sản xuất với quy mô công nghiệp. Nghề trồng nấm không những mang lại lợi nhuận cao mà còn góp phần giải quyết vấn đề môi trường do phế phụ liệu ngành nông nghiệp tạo ra. Nguồn chất thải sau thu hoạch thường bao giờ cũng khá lớn, nó chiếm từ 60- 80% so với sản phẩm thu được, nhất là ở cây trồng. Nguồn phế liệu này có thành phần chủ yếu là chất xơ (cellulose), những nguồn này lại là thức ăn chính cho nấm. Do đó, việc đốt bỏ hay tệ hại hơn là thải bỏ dưới dạng rác đều là lãng phí. Một số trường hợp lên men hiếu khí hay kỵ khí để tạo ra sản phẩm cuối là chất mùn bón lại cho đất, nhưng quá trình này thường cần thời gian dài và làm mất đi một lượng lớn năng lượng dưới dạng nhiệt năng. Nghiêm trọng hơn là các khí thải, nước thải, mầm bệnh… còn làm ô nhiễm môi trường xung quanh. Từ những hạn chế trên, thì việc tận dụng các phế liệu này làm cơ chất trồng nấm, là nhằm hợp lý hoá trong việc sử dụng tối đa năng lượng mặt trời tích lũy ở các xác bã thực vật. Vừa đảm bảo được chu trình tuần hoàn tự nhiên của vật chất, vừa tạo ra nhiều sản phẩm trung gian giá trị cao (như: phân bón hữu cơ cao cấp). Và giải pháp này còn được gọi là giải pháp nông sinh học nhằm biến đổi phế liệu nông lâm nghiệp thành sản phẩm chất lượng cao.
Như vậy, trong sản xuất nông nghiệp, việc tận thu một cách tối đa các kết quả của trồng trọt, tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau là vấn đề thời sự và cũng là xu hướng chung của thế giới. Vì thế, việc kết hợp và làm phân bón để tận dụng các phế liệu nông nghiệp, là một trong những giải pháp không thể thiếu được.
Tóm lại, trồng nấm được xem là một ngành không thể thiếu trong nông nghiệp. Trồng nấm là một việc rất phù hợp với mọi người vì công nghệ không phức tạp, nguyên liệu dễ kiếm. Trước hết cung cấp nguồn thực phẩm giàu nguồn dinh dưỡng phục vụ tiêu dùng hằng ngày và đồng thời là nguồn dược liệu quý báu trong cuộc sống nếu trồng nhiều có thể tạo nguồn thu nhập đáng kể cho gia đình và xã hội. Phế thải sau khi thu hoạch hết nấm thì chuyển sang làm phân bón.
Ngày nay ngoài bốn loại nấm phổ biến là nấm sò, linh chi, nấm rơm, mộc nhĩ thì người tiêu dùng đang hướng tới những loại nấm cao cấp có giá trị dinh dưỡng và tính dược liệu cao như nấm kim châm, nấm hương, nấm đúi gà, nấm Trân Châu… Trong đó phải kể đến nấm Trân Châu là một loại nấm ăn có vị ngọt đậm đà, ngon và đặc biệt nấm có mùi thơm hấp dẫn. Nó có hàm lượng dinh dưỡng cao, thành phần dinh dưỡng gồm protein, chất béo, carbohydrat và nhiều loại khoáng chất khác như calci và phosphor. Bên cạnh đó nấm Trân Châu cũng có dược tính cao, có khả năng kháng được nhiều loại virus kháng khuẩn, đặc biệt khi ăn nấm thường xuyên có tác dụng điều hoà huyết áp.
Từ những thực tế trên tui chọn đề tài: “Tìm hiểu kỹ thuật nuôi trồng nấm Trân Châu”.
Phần I: KHÁI QUÁT VỀ NGHỀ NUÔI TRỒNG NẤM
1.1. Sơ lược tình hình sản xuất nấm trên thế giới và trong nước
1.1.1.Tình hình sản xuất nấm trên thế giới [2],[6]
Hiện nay nghề trồng nấm đã phát triển rất mạnh trên thế giới, đặc biệt là ở Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ… Năm 1990 tổng sản lượng nấm ăn trên toàn Thế Giới là 3.763.000 tấn. Đến năm 1994 tổng sản lượng nấm trên Thế Giới lên tới 4.909.000 tấn.Trong đó nấm mỡ đạt 1.846.000 tấn (chiếm 37.6%), nấm hương đạt 826.200 tấn (chiếm 16.8%), nấm rơm đạt 798.800 tấn (chiếm 6.1%), nấm mộc nhĩ trắng đạt 156.200 tấn (chiếm 3.2%), nấm kim vàng đạt 229.780 tấn (chiếm 4.7%), nấm chân cơ đạt 54.800 tấn (chiếm 1.1%), nấm trơn đạt 27.000 tấn (chiếm 0.6%), nấm hoa cây xám đạt 14.200 tấn (chiếm 0.3%), các loài nấm ăn khác đạt 238.000 tấn (chiếm 4.8%).
Các nước sản xuất chủ yếu trong năm 1994 là Trung Quốc đạt 2.850.000 tấn, (trong vùng lãnh thổ Đài Loan đạt 71.800 tấn) chiếm 53.79% tổng sản lượng, Hoa Kỳ đạt 393.400 tấn chiếm 7.61%, Nhật Bản đạt 360.100 tấn chiếm 7.34%, Pháp đạt 185.000 tấn, Hà Lan đạt 88.500 tấn, Italia đạt 71.000 tấn, Canada đạt 46.000 tấn, Anh đạt 28.500 tấn, Indonesia đạt 118.800 tấn, Hàn Quốc đạt 92.000 tấn.
Các nước tập trung nghiên cứu sản xuất chủ yếu là các loại nấm ăn như: nấm sò, nấm hương, nấm mỡ và nấm dược liệu (chủ yếu là linh chi). Ở các nước Châu Âu và khu vực Bắc Mỹ đều sản xuất theo phương pháp công nghiệp. Nhiều nhà máy sản xuất nấm có công suất từ 200-1000 tấn/năm và được cơ giới hóa rất tốt từ khâu xử lý nguyên liệu đến thu hái và chăm sóc bảo quản đều do máy móc đảm nhiệm. Năng suất trung bình từ 40-60% so với mức đầu tư nguyên liệu đối với các nước châu Á, sản xuất nấm theo mô hình trang trại đặc biệt là Trung Quốc nghề trồng nấm đã đi đến từng hộ nông dân, sản lượng nấm hương, nấm mỡ lớn nhất thế giới.
Hiện tại Trung Quốc là nước sản xuất nấm nhiều nhất trên thế giới. Năm 1995 sản lượng nấm của Trung Quốc là 3.000.000 tấn, chiếm 60% tổng sản lượng nấm trên thế giới, riêng Phúc Kiến là 800.000 tấn chiếm 26.67% của cả nước và 6.4% trên toàn thế giới. Thập kỷ 80 của thế kỷ 20, tổng sản lượng nấm ăn giao dịch trên thị trường thế giới là 300.000-350.000 tấn. Bình quân mỗi người dân Âu Mỹ tiêu dùng từ 2-3 kg, người Nhật và người Đức tiêu thụ 4 kg
Hằng ngày ở thị trường New-York bình quân tiêu thụ 2-3 tấn nấm rơm, nấm hương tươi, mộc nhĩ tươi, đứng hàng thứ 2 sau rau.
Đến năm 2005, tổng sản lượng nấm trên Thế Giới đạt khoảng 20 triệu tấn. Riêng Trung Quốc chiếm sản lượng 50% so với toàn Thế Giới. Tốc độ tăng trưởng về sản lượng nấm ăn cao hơn năm trước trên 5%.
1.1.2. Tình hình hình sản xuất nấm ở Việt Nam [1], [2], [4]
Việt Nam là một trong những nước nông nghiệp có khí hậu nhiệt đới, đây cũng là điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp và tạo nguồn nguyên liệu dùng làm cơ chất trồng nấm. Bên cạnh đó thì Việt Nam là một nước giàu nguồn nhân công lao động nên đây cũng là điều kiện đầu tiên và vô cùng quan trọng cho việc phát triển nghề trồng nấm.
Việc nghiên cứu sản xuất và phát triển nấm ăn và nấm dược liệu ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1970. Nhưng nghề này bắt đầu phát triển và đưa lại hiệu quả kinh tế cao từ 10 năm trở lại đây. Do tùy thuộc vào từng vùng khí hậu khác nhau mà nghề trồng nấm phát triển với nhiều kiểu mô hình khác nhau cho phù hợp với điều kiện nhiệt độ, khí hậu từng vùng.
Vào năm 1984, trung tâm nghiên cứu nấm ăn thuộc đại học tổng hợp Hà Nội được thành lập.
Năm 1985, được tổ chức FAO tài trợ và ủy ban nhân thành phố Hà Nội quyết định thành lập trung tâm sản xuất nấm Trường Mai. Một năm sau ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh với sự tài trợ của tổ chức FAO quyết định thành lập xí nghiệp nấm ăn thành phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 1988-1992, phong trào trồng nấm được mở rộng hầu các tỉnh khu vực phía Bắc. Sau khi được thành lập thì tổng sản lượng nấm ở khu vực phía Bắc đạt 30 tấn nhưng đến năm 2000 đạt 10.000 tấn. Đến năm 2002, cả nước sản xuất được 100.000 tấn nấm thực phẩm thì đến nay đã đạt 150.000 tấn/năm.
Đối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Nam thì phát triển và sản xuất nấm rơm, ngoài ra cũng có nấm mộc nhĩ cũng được trồng phổ biến. Nghề trồng nấm ở Đồng Nai cũng được thành lập từ lâu, đặc biệt các làng như: làng nấm sông Trầu đã tồn tại 16 năm với khoảng 100 hộ dân, làng nấm Xuân Đỉnh có khoảng 300 hộ trồng nấm mèo với tổng sản lượng đạt 1.174 tấn/năm lợi nhuận khoảng 3.5 tỉ đồng/năm, làng nấm Bình Lộc có khoảng 60 hộ trồng nấm mèo với tổng sản lượng 1.578 tấn/năm lợi nhuận 47.3 tỉ đồng. Ở nước ta nấm được trồng nhiều tại các tỉnh: Đồng Nai, An Giang, Vĩnh Long và đây là một trong những ngành hàng được đánh giá là một trong những mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu của nước ta. Tại các địa phương trồng nấm ngành nông nghiệp phát động phong trào trồng nấm xuất khẩu.
Trong vòng 1 tháng từ 11/12/2006–12/01/2007 xuất khẩu nấm đạt 1.425 USD, và trong vòng 7 ngày cuối thánh 6 từ 20 đến 27/06/2007 kim ngạch xuất khẩu nấm của nước ta đạt gần 250 nghìn USD. Hơn nữa, nấm chủ yếu được xuất sang thị trường Hoa Kỳ- một trong những thị trường khó tính. Một trong những hướng xuất khẩu trong tương lai là một mặt phát triển lượng xuất khẩu sang thị trường truyền thống mặt khác tiến hành thâm nhập các thị trường mới. Để làm được điều này các hoạt động xúc tiến thương mại cần được chú trọng hơn nữa để có thể phát triển ngành trồng nấm xuất khẩu đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng nhiều quốc gia.
Việt Nam là một trong những nước có đủ điều kiện để phát triển mạnh nghề trồng nấm do:
Một là, nguồn nguyên liệu để trồng nấm là rơm rạ, than gỗ, mùn cưa, bả mía… Các loại phế liệu sau khi thu hoạch rất giàu chất xenllulo. Nếu tính trung bình 1 tấn thóc sẽ cho ra 1.2 tấn rơm rạ khô thì tổng sản lượng rơm rạ trong cả nước đạt con số vài chục triệu tấn/năm. Chỉ cần sử dụng 10% số nguyên liệu kể trên để trồng nấm thì sản lượng nấm đã đạt vài trăm ngàn tấn/năm.
Hai là, lực lượng lao động dồi dào và giá công lao động rẻ. Tính trung bình 1 lao động nông nghiệp mới chỉ dùng đến 30-40% quỷ thời gian. Chưa kể đến mọi lao động phụ đều có thể tham gia trồng nấm được.
Ba là, điều kiện tự nhiên (về nhiệt độ, độ ẩm…) rất thích hợp cho nấm phát triển. Cả 2 nhóm nấm (nhóm ưa nhiệt độ cao: nấm hương… nhóm ưa nhiệt độ thấp: nấm mỡ, nấm hương…) ở Việt Nam đều trồng được. Phân vùng đối với các tỉnh phía Nam tập trung trồng nấm rơm,… Các tỉnh phía Bắc trồng nấm mỡ, nấm hương…
Bốn là, vốn đầu tư ban đầu để trồng nấm rất ít so với việc đầu tư cho các ngành sản xuất khác.
Năm là, kỹ thuật trồng nấm không phức tạp. Một người dân bình thường có thể tiếp thu được công nghệ trông nấm trong thời gian ngắn.
Sáu là, thị trường tiêu thụ nấm trong nước và trên thế giới tăng nhanh do sự phát triển chung của xã hội và dân số. Hiệp hội nấm ăn thế giới đã đưa chỉ số bình quân lượng tiêu thụ nấm ăn cho 1 người trong 1 năm để đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
1.2. Những thuận lợi và khó khăn của nghề nuôi trồng nấm [3]
1.2.1. Thuận lợi
- Nghề trồng nấm dễ thực hiện ở nhiều nơi từ nguồn nguyên liệu rẻ tiền, có ở khắp nơi, dồi dào như: rơm rạ, thân ngô, lõi bắp…
- Có thể sản xuất được quanh năm (kể cả mùa mưa) chỉ cần đảm bảo nhiệt độ thích hợp để nấm phát triển. Có thể trồng nấm tại nhà vừa tận dụng được nguồn phụ phẩm nông nghiệp, vừa tận dụng được sức lao động nông nhàn.
- Vốn đầu tư không nhiều tuỳ vào điều kiện kinh tế, nếu ít vốn thì làm nhỏ, nhiều vốn thì làm qui mô lớn.
- Vòng quay vốn nhanh do chu kỳ sản xuất ngắn, như nấm rơm sau 15 ngày đã thu hoạch, nấm bào ngư thu hoạch sau 2 tháng.
- Ít tốn đất và hiệu quả sử dụng đất cao do trồng trên giàn, kệ nhiều tầng, tận dụng đất không trồng trọt được, và có thể cải tạo đất bằng bã sau khi thu nấm.
- Chế biến bảo quản đơn giản, dễ thực hiện như phơi, sấy khô, muối. Sản phẩm có giá trị cao thuận tiện cho việc vận chuyển xa.
- Bảo vệ môi sinh: Đa số các nấm trồng không có mùi thối, lại biến phế thải thành chất có ích.
1.2.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi nghề trồng nấm cũng còn nhiều khó khăn
- Nhiều khó khăn của nông nghiệp nói chung như thời tiết, các yếu tố môi trường, sâu bệnh và sản lượng không ổn định…
- Là loại hình sản xuất liên quan chặt chẽ với các vi sinh vật, khâu làm meo giống phải làm riêng trong phòng thí nghiệm, nên việc phát triển ở một số nơi phải tổ chức trạm meo cung cấp giống.
- Các vi sinh vật gây nhiễm khó thấy.
- Nhiều trường hợp nấm không ra hay sản lượng thấp chưa rõ nguyên nhân.
- Nhiều nấm bán tươi cần tiêu thụ nhanh hay phải giữ lạnh gây khó khăn trong quá trinh bảo quản.
- Chưa chú ý đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật do nước ta vẫn còn quan niệm là nghề phụ, tranh thủ tận dụng nguồn phế liệu và lao động.
- Do thiếu sự liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp nên dẫn tới tình trạng nấm làm ra không biết bán cho ai, trong khi doanh nghiệp thì khan hàng.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Xem thêm
Kỹ thuật trồng nấm kim châm
Kỹ thuật nuôi trồng nấm Trân Châu Agrocybe aegerital
Bài thu hoạch Công nghệ nuôi trồng nấm
MỞ ĐẦU
Ngày nay, nghề nuôi trồng nấm ở nước ta đã và đang phát triển mạnh mẽ và đang tiến tới hình thành các cơ sở sản xuất với quy mô công nghiệp. Nghề trồng nấm không những mang lại lợi nhuận cao mà còn góp phần giải quyết vấn đề môi trường do phế phụ liệu ngành nông nghiệp tạo ra. Nguồn chất thải sau thu hoạch thường bao giờ cũng khá lớn, nó chiếm từ 60- 80% so với sản phẩm thu được, nhất là ở cây trồng. Nguồn phế liệu này có thành phần chủ yếu là chất xơ (cellulose), những nguồn này lại là thức ăn chính cho nấm. Do đó, việc đốt bỏ hay tệ hại hơn là thải bỏ dưới dạng rác đều là lãng phí. Một số trường hợp lên men hiếu khí hay kỵ khí để tạo ra sản phẩm cuối là chất mùn bón lại cho đất, nhưng quá trình này thường cần thời gian dài và làm mất đi một lượng lớn năng lượng dưới dạng nhiệt năng. Nghiêm trọng hơn là các khí thải, nước thải, mầm bệnh… còn làm ô nhiễm môi trường xung quanh. Từ những hạn chế trên, thì việc tận dụng các phế liệu này làm cơ chất trồng nấm, là nhằm hợp lý hoá trong việc sử dụng tối đa năng lượng mặt trời tích lũy ở các xác bã thực vật. Vừa đảm bảo được chu trình tuần hoàn tự nhiên của vật chất, vừa tạo ra nhiều sản phẩm trung gian giá trị cao (như: phân bón hữu cơ cao cấp). Và giải pháp này còn được gọi là giải pháp nông sinh học nhằm biến đổi phế liệu nông lâm nghiệp thành sản phẩm chất lượng cao.
Như vậy, trong sản xuất nông nghiệp, việc tận thu một cách tối đa các kết quả của trồng trọt, tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau là vấn đề thời sự và cũng là xu hướng chung của thế giới. Vì thế, việc kết hợp và làm phân bón để tận dụng các phế liệu nông nghiệp, là một trong những giải pháp không thể thiếu được.
Tóm lại, trồng nấm được xem là một ngành không thể thiếu trong nông nghiệp. Trồng nấm là một việc rất phù hợp với mọi người vì công nghệ không phức tạp, nguyên liệu dễ kiếm. Trước hết cung cấp nguồn thực phẩm giàu nguồn dinh dưỡng phục vụ tiêu dùng hằng ngày và đồng thời là nguồn dược liệu quý báu trong cuộc sống nếu trồng nhiều có thể tạo nguồn thu nhập đáng kể cho gia đình và xã hội. Phế thải sau khi thu hoạch hết nấm thì chuyển sang làm phân bón.
Ngày nay ngoài bốn loại nấm phổ biến là nấm sò, linh chi, nấm rơm, mộc nhĩ thì người tiêu dùng đang hướng tới những loại nấm cao cấp có giá trị dinh dưỡng và tính dược liệu cao như nấm kim châm, nấm hương, nấm đúi gà, nấm Trân Châu… Trong đó phải kể đến nấm Trân Châu là một loại nấm ăn có vị ngọt đậm đà, ngon và đặc biệt nấm có mùi thơm hấp dẫn. Nó có hàm lượng dinh dưỡng cao, thành phần dinh dưỡng gồm protein, chất béo, carbohydrat và nhiều loại khoáng chất khác như calci và phosphor. Bên cạnh đó nấm Trân Châu cũng có dược tính cao, có khả năng kháng được nhiều loại virus kháng khuẩn, đặc biệt khi ăn nấm thường xuyên có tác dụng điều hoà huyết áp.
Từ những thực tế trên tui chọn đề tài: “Tìm hiểu kỹ thuật nuôi trồng nấm Trân Châu”.
Phần I: KHÁI QUÁT VỀ NGHỀ NUÔI TRỒNG NẤM
1.1. Sơ lược tình hình sản xuất nấm trên thế giới và trong nước
1.1.1.Tình hình sản xuất nấm trên thế giới [2],[6]
Hiện nay nghề trồng nấm đã phát triển rất mạnh trên thế giới, đặc biệt là ở Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ… Năm 1990 tổng sản lượng nấm ăn trên toàn Thế Giới là 3.763.000 tấn. Đến năm 1994 tổng sản lượng nấm trên Thế Giới lên tới 4.909.000 tấn.Trong đó nấm mỡ đạt 1.846.000 tấn (chiếm 37.6%), nấm hương đạt 826.200 tấn (chiếm 16.8%), nấm rơm đạt 798.800 tấn (chiếm 6.1%), nấm mộc nhĩ trắng đạt 156.200 tấn (chiếm 3.2%), nấm kim vàng đạt 229.780 tấn (chiếm 4.7%), nấm chân cơ đạt 54.800 tấn (chiếm 1.1%), nấm trơn đạt 27.000 tấn (chiếm 0.6%), nấm hoa cây xám đạt 14.200 tấn (chiếm 0.3%), các loài nấm ăn khác đạt 238.000 tấn (chiếm 4.8%).
Các nước sản xuất chủ yếu trong năm 1994 là Trung Quốc đạt 2.850.000 tấn, (trong vùng lãnh thổ Đài Loan đạt 71.800 tấn) chiếm 53.79% tổng sản lượng, Hoa Kỳ đạt 393.400 tấn chiếm 7.61%, Nhật Bản đạt 360.100 tấn chiếm 7.34%, Pháp đạt 185.000 tấn, Hà Lan đạt 88.500 tấn, Italia đạt 71.000 tấn, Canada đạt 46.000 tấn, Anh đạt 28.500 tấn, Indonesia đạt 118.800 tấn, Hàn Quốc đạt 92.000 tấn.
Các nước tập trung nghiên cứu sản xuất chủ yếu là các loại nấm ăn như: nấm sò, nấm hương, nấm mỡ và nấm dược liệu (chủ yếu là linh chi). Ở các nước Châu Âu và khu vực Bắc Mỹ đều sản xuất theo phương pháp công nghiệp. Nhiều nhà máy sản xuất nấm có công suất từ 200-1000 tấn/năm và được cơ giới hóa rất tốt từ khâu xử lý nguyên liệu đến thu hái và chăm sóc bảo quản đều do máy móc đảm nhiệm. Năng suất trung bình từ 40-60% so với mức đầu tư nguyên liệu đối với các nước châu Á, sản xuất nấm theo mô hình trang trại đặc biệt là Trung Quốc nghề trồng nấm đã đi đến từng hộ nông dân, sản lượng nấm hương, nấm mỡ lớn nhất thế giới.
Hiện tại Trung Quốc là nước sản xuất nấm nhiều nhất trên thế giới. Năm 1995 sản lượng nấm của Trung Quốc là 3.000.000 tấn, chiếm 60% tổng sản lượng nấm trên thế giới, riêng Phúc Kiến là 800.000 tấn chiếm 26.67% của cả nước và 6.4% trên toàn thế giới. Thập kỷ 80 của thế kỷ 20, tổng sản lượng nấm ăn giao dịch trên thị trường thế giới là 300.000-350.000 tấn. Bình quân mỗi người dân Âu Mỹ tiêu dùng từ 2-3 kg, người Nhật và người Đức tiêu thụ 4 kg
Hằng ngày ở thị trường New-York bình quân tiêu thụ 2-3 tấn nấm rơm, nấm hương tươi, mộc nhĩ tươi, đứng hàng thứ 2 sau rau.
Đến năm 2005, tổng sản lượng nấm trên Thế Giới đạt khoảng 20 triệu tấn. Riêng Trung Quốc chiếm sản lượng 50% so với toàn Thế Giới. Tốc độ tăng trưởng về sản lượng nấm ăn cao hơn năm trước trên 5%.
1.1.2. Tình hình hình sản xuất nấm ở Việt Nam [1], [2], [4]
Việt Nam là một trong những nước nông nghiệp có khí hậu nhiệt đới, đây cũng là điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp và tạo nguồn nguyên liệu dùng làm cơ chất trồng nấm. Bên cạnh đó thì Việt Nam là một nước giàu nguồn nhân công lao động nên đây cũng là điều kiện đầu tiên và vô cùng quan trọng cho việc phát triển nghề trồng nấm.
Việc nghiên cứu sản xuất và phát triển nấm ăn và nấm dược liệu ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1970. Nhưng nghề này bắt đầu phát triển và đưa lại hiệu quả kinh tế cao từ 10 năm trở lại đây. Do tùy thuộc vào từng vùng khí hậu khác nhau mà nghề trồng nấm phát triển với nhiều kiểu mô hình khác nhau cho phù hợp với điều kiện nhiệt độ, khí hậu từng vùng.
Vào năm 1984, trung tâm nghiên cứu nấm ăn thuộc đại học tổng hợp Hà Nội được thành lập.
Năm 1985, được tổ chức FAO tài trợ và ủy ban nhân thành phố Hà Nội quyết định thành lập trung tâm sản xuất nấm Trường Mai. Một năm sau ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh với sự tài trợ của tổ chức FAO quyết định thành lập xí nghiệp nấm ăn thành phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 1988-1992, phong trào trồng nấm được mở rộng hầu các tỉnh khu vực phía Bắc. Sau khi được thành lập thì tổng sản lượng nấm ở khu vực phía Bắc đạt 30 tấn nhưng đến năm 2000 đạt 10.000 tấn. Đến năm 2002, cả nước sản xuất được 100.000 tấn nấm thực phẩm thì đến nay đã đạt 150.000 tấn/năm.
Đối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Nam thì phát triển và sản xuất nấm rơm, ngoài ra cũng có nấm mộc nhĩ cũng được trồng phổ biến. Nghề trồng nấm ở Đồng Nai cũng được thành lập từ lâu, đặc biệt các làng như: làng nấm sông Trầu đã tồn tại 16 năm với khoảng 100 hộ dân, làng nấm Xuân Đỉnh có khoảng 300 hộ trồng nấm mèo với tổng sản lượng đạt 1.174 tấn/năm lợi nhuận khoảng 3.5 tỉ đồng/năm, làng nấm Bình Lộc có khoảng 60 hộ trồng nấm mèo với tổng sản lượng 1.578 tấn/năm lợi nhuận 47.3 tỉ đồng. Ở nước ta nấm được trồng nhiều tại các tỉnh: Đồng Nai, An Giang, Vĩnh Long và đây là một trong những ngành hàng được đánh giá là một trong những mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu của nước ta. Tại các địa phương trồng nấm ngành nông nghiệp phát động phong trào trồng nấm xuất khẩu.
Trong vòng 1 tháng từ 11/12/2006–12/01/2007 xuất khẩu nấm đạt 1.425 USD, và trong vòng 7 ngày cuối thánh 6 từ 20 đến 27/06/2007 kim ngạch xuất khẩu nấm của nước ta đạt gần 250 nghìn USD. Hơn nữa, nấm chủ yếu được xuất sang thị trường Hoa Kỳ- một trong những thị trường khó tính. Một trong những hướng xuất khẩu trong tương lai là một mặt phát triển lượng xuất khẩu sang thị trường truyền thống mặt khác tiến hành thâm nhập các thị trường mới. Để làm được điều này các hoạt động xúc tiến thương mại cần được chú trọng hơn nữa để có thể phát triển ngành trồng nấm xuất khẩu đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng nhiều quốc gia.
Việt Nam là một trong những nước có đủ điều kiện để phát triển mạnh nghề trồng nấm do:
Một là, nguồn nguyên liệu để trồng nấm là rơm rạ, than gỗ, mùn cưa, bả mía… Các loại phế liệu sau khi thu hoạch rất giàu chất xenllulo. Nếu tính trung bình 1 tấn thóc sẽ cho ra 1.2 tấn rơm rạ khô thì tổng sản lượng rơm rạ trong cả nước đạt con số vài chục triệu tấn/năm. Chỉ cần sử dụng 10% số nguyên liệu kể trên để trồng nấm thì sản lượng nấm đã đạt vài trăm ngàn tấn/năm.
Hai là, lực lượng lao động dồi dào và giá công lao động rẻ. Tính trung bình 1 lao động nông nghiệp mới chỉ dùng đến 30-40% quỷ thời gian. Chưa kể đến mọi lao động phụ đều có thể tham gia trồng nấm được.
Ba là, điều kiện tự nhiên (về nhiệt độ, độ ẩm…) rất thích hợp cho nấm phát triển. Cả 2 nhóm nấm (nhóm ưa nhiệt độ cao: nấm hương… nhóm ưa nhiệt độ thấp: nấm mỡ, nấm hương…) ở Việt Nam đều trồng được. Phân vùng đối với các tỉnh phía Nam tập trung trồng nấm rơm,… Các tỉnh phía Bắc trồng nấm mỡ, nấm hương…
Bốn là, vốn đầu tư ban đầu để trồng nấm rất ít so với việc đầu tư cho các ngành sản xuất khác.
Năm là, kỹ thuật trồng nấm không phức tạp. Một người dân bình thường có thể tiếp thu được công nghệ trông nấm trong thời gian ngắn.
Sáu là, thị trường tiêu thụ nấm trong nước và trên thế giới tăng nhanh do sự phát triển chung của xã hội và dân số. Hiệp hội nấm ăn thế giới đã đưa chỉ số bình quân lượng tiêu thụ nấm ăn cho 1 người trong 1 năm để đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
1.2. Những thuận lợi và khó khăn của nghề nuôi trồng nấm [3]
1.2.1. Thuận lợi
- Nghề trồng nấm dễ thực hiện ở nhiều nơi từ nguồn nguyên liệu rẻ tiền, có ở khắp nơi, dồi dào như: rơm rạ, thân ngô, lõi bắp…
- Có thể sản xuất được quanh năm (kể cả mùa mưa) chỉ cần đảm bảo nhiệt độ thích hợp để nấm phát triển. Có thể trồng nấm tại nhà vừa tận dụng được nguồn phụ phẩm nông nghiệp, vừa tận dụng được sức lao động nông nhàn.
- Vốn đầu tư không nhiều tuỳ vào điều kiện kinh tế, nếu ít vốn thì làm nhỏ, nhiều vốn thì làm qui mô lớn.
- Vòng quay vốn nhanh do chu kỳ sản xuất ngắn, như nấm rơm sau 15 ngày đã thu hoạch, nấm bào ngư thu hoạch sau 2 tháng.
- Ít tốn đất và hiệu quả sử dụng đất cao do trồng trên giàn, kệ nhiều tầng, tận dụng đất không trồng trọt được, và có thể cải tạo đất bằng bã sau khi thu nấm.
- Chế biến bảo quản đơn giản, dễ thực hiện như phơi, sấy khô, muối. Sản phẩm có giá trị cao thuận tiện cho việc vận chuyển xa.
- Bảo vệ môi sinh: Đa số các nấm trồng không có mùi thối, lại biến phế thải thành chất có ích.
1.2.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi nghề trồng nấm cũng còn nhiều khó khăn
- Nhiều khó khăn của nông nghiệp nói chung như thời tiết, các yếu tố môi trường, sâu bệnh và sản lượng không ổn định…
- Là loại hình sản xuất liên quan chặt chẽ với các vi sinh vật, khâu làm meo giống phải làm riêng trong phòng thí nghiệm, nên việc phát triển ở một số nơi phải tổ chức trạm meo cung cấp giống.
- Các vi sinh vật gây nhiễm khó thấy.
- Nhiều trường hợp nấm không ra hay sản lượng thấp chưa rõ nguyên nhân.
- Nhiều nấm bán tươi cần tiêu thụ nhanh hay phải giữ lạnh gây khó khăn trong quá trinh bảo quản.
- Chưa chú ý đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật do nước ta vẫn còn quan niệm là nghề phụ, tranh thủ tận dụng nguồn phế liệu và lao động.
- Do thiếu sự liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp nên dẫn tới tình trạng nấm làm ra không biết bán cho ai, trong khi doanh nghiệp thì khan hàng.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Xem thêm
Kỹ thuật trồng nấm kim châm
Kỹ thuật nuôi trồng nấm Trân Châu Agrocybe aegerital
Bài thu hoạch Công nghệ nuôi trồng nấm