sunny_luv_lynk
New Member
Download Đề tài Lăng Minh Mạng trong hệ thống lăng tẩm Huế
Nhà bia mà chúng ta đang tham quan là một ngôi nhà cô lầu, hình vuông ba tầng, bên trong có bia “Thánh đức thần công” ghi bài văn bia của vua Thiệu Trị dựng năm 1842 kể về tiểu sử và công đức của vua cha. Trên nhà bia có khắc 8 chữ lớn “Thánh nhân, thần võ, chí nhân, đại đức” để ca ngợi công đức của vua cha “Như thần, như thánh”. Vì theo thông lệ, sau khi vua băng hà thì người con trai kế vị sẽ làm bia cho cha của mình. Nói tới công lao của 13 vị vua nhà Nguyễn thì Minh Mạng được xem là ông vua văn võ song toàn, thời kỳ trị vì của vua được xem là thời kỳ phát triển phồn thịnh nhất, công lao lớn nhất của ông chính là đã xác định được chủ quyền của dân tộc, vẽ được sơ đồ nước Đại Nam, mở mang bờ cõi. Vua Minh Mạng là vị vua rất sùng bái nho học và là một ông vua kiên quyết độc tài nhưng là người rất có trách nhiệm đối với đất nước. Nếu như vua Gia Long được đánh giá là người có công trong việc kiến lập nên vương triều Nguyễn thì vua Minh Mạng là người được đánh giá rất cao trong việc kiến thiết vương triều.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
KHOA VĂN HÓA – DU LỊCH
BÀI THUYẾT MINH LĂNG MINH MẠNG
Nhóm sinh viên thực hiện và mức độ tham gia:
Sinh viên thực hiện Mức độ tham gia
Lê Đình Đông A
Nguyễn Luật B
Nguyễn Hoàng Vinh B
Lê Thị Kim A
Trần Thị Kim Anh B
Phạm Thị Phượng A
SulyVông B
Lăng Minh Mạng
Xin chào Quý khách, hôm nay tui rất vui khi được dẫn đoàn chúng ta đến thăm quan lăng vua Minh Mạng. tui xin tự giới thiệu tui tên là Lê Đình A, là Hướng dẫn viên của công ty du lịch Hội An Travel , chúc cả đoàn sức khỏe, có một chuyến đi thú vị và bổ ích.
Bây giờ thì xe của đoàn chúng ta đang lăn bánh trên thành phố Huế chỉ còn ít phút nữa thôi chúng ta sẽ có mặt tại lăng Minh Mạng.
Lăng Minh Mạng tọa lạc trên bờ sông hương, thuộc huyện Hương Trà nay là thành phố Huế, thỉnh Thừa Thiên Huế.
Vâng! như quý khách đã biết Huế là nơi còn bảo lưu khá nguyên vẹn hệ thống các thành quách cung điện, lăng tẩm của triều đại nhà Nguyễn. Nếu tham quan Đại Nội, người ta gọi đó là “Hoàng cung thứ nhất” dành cho 13 vị vua triều Nguyễn từ vua Gia Long đến vị vua cuối cùng là Bảo Đại thì đi ngược dòng sông Hương về phía Tây của thành phố Huế là các khu lăng tẩm, nơi yên nghỉ của các vua được xem là “Hoàng cung thứ hai” khi về cõi vĩnh hằng.
Trải qua 143 tồn tại (1802-1945), triều Nguyễn có tất cả 13 vị vua. Nhưng do những lí do lịch sử khác nhau nên chỉ có 7 vị vua có lăng tẩm, đa số các lăng này đều tọa lạc ở bờ Nam sông Hương.
Trải qua một chặng đường dài cuối cùng đoàn chúng ta cũng đã đến với lăng Minh Mạng.
Giờ đây thì đoàn nhà mình đang đứng trên địa phận lăng Minh Mạng. Trước tiên tui xin giới thiệu tổng quát về lịch sử xây dựng lăng:
Vâng thưa đoàn nhà mình! Thời đó thì vua Gia Long là Vị Vua đầu tiên của triều Nguyễn ông lên ngôi vua năm 1802 đến 1820 làm vua được 18 năm nhà vua mất. Sau khi Vua Gia Long mất thì con trai thứ 4 là Minh Mạng lên ngôi lấy niên hiệu là vua Minh Mạng. Minh Mạng là một người rất thông minh, hiếu học, tài kiêm văn võ, ông lên ngôi vua năm 30 tuổi và trị vì trong vòng 20 năm từ năm 1820 đến 1840, thọ 50 tuổi.
Việc cân nhắc xây dựng lăng của vua Minh Mạng cũng như các ông vua khác là luôn chú trọng đến địa lý phong thủy để xây lăng với ước muốn con cháu mình sau này sẽ tiếp nối vương đế. Ngoài yếu tố địa lý phong thủy, theo tập quán chung của các triều đại, các vua thường đề cao Dịch lý: “Thánh nhân Nam diện nhi thính thiên hạ, hướng minh nhi trị”, có nghĩa “Vua quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ, hướng về lẽ sáng để làm việc nước”. Vì vậy mà toàn bộ công trình xây dựng các Lăng của các ông vua triều Nguyễn đều theo một trục căn bản quay về hướng Nam, một phong tục mà không chỉ vua chúa Việt Nam mà cả Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản đều chọn trong chương trình thiết kế Kinh đô hay Lăng tẩm.
Cũng như vua cha là Gia Long sau khi qua đời vua Minh Mạng cũng cho xây dựng nơi yên nghĩ cuối cùng của của mình. Sau khi làm vua được 7 năm, Minh Mạng cho người đi tìm đất để xây dựng Sơn lăng cho mình. Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một chỗ đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành con sông Hương thơ mộng. Nhưng phải ròng rã 14 năm cân nhắc, chọn lựa, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này. Nhà vua cho đổi tên núi Cẩm Kê (thuộc ấp An Bằng, huyện Hương Trà) thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế do các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên. Tháng 4 năm 1840, công cuộc kiến thiết Hiếu Lăng bắt đầu. Vua sai các quan Lê Đăng Danh, Nguyễn Trung Mậu và Lý Văn Phức điều khiển lính và thợ thuyền lên đây đào hồ đắp La thành. Tháng 8 năm 1840, Minh Mạng lên kiểm tra thấy công việc đào hồ Trừng Minh không vừa ý nên giáng chức các quan trông coi và đình chỉ công việc. Một tháng sau, công việc vừa được tiếp tục thì Minh Mạng lâm bệnh qua đời vào tháng 1 năm 1841. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau (tháng 2-1841) đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại. Ngày 20 tháng 8 năm 1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm 1843 mới hoàn tất. Để xây dựng lăng vua huy động gần 1 vạn lính thợ trước tiên vua Minh Mạng cho đào hồ Trừng Minh, đổ đá cho có kẻ hở để dẫn nước từ núi Cẩm Khê vào 2 hồ theo thế Chi huyền thủy ( tức là nước trong hồ chảy từ trái sang phải theo hình chữ “Chi“ ), sau này là hồ Trừng Minh và hồ Tân Nguyệt. Bên cạnh coi trọng mạch nước, các vua nhà Nguyễn quan niệm mạch nước là huyết mạch của rồng, đất là thịt rồng, đá là xương và hoa lá là râu tóc của rồng nên cảnh quan của lăng vẫn giữ được cho đến ngày hôm nay.
Trước khi tham quan cụ thể lăng Minh Mạng tui xin giới thiệu tổng quát về bố cục kiến trúc của lăng:
Vâng! trước mắt đoàn chúng ta sơ đồ tham quan lăng Minh Mạng
Nhìn vào sơ đồ thì Lăng Minh Mạng có bố cục kiến trúc cân bằng đối xứng, xung quanh một trục kiến trúc là đường thần đạo, xuyên qua một loạt các hạng mục công trình gồm: cửa chính, sân chầu, nhà bia, sân tế, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân (thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu), hồ Trừng Minh, Minh Lâu, hồ Tân Nguyệt (trăng non), cổng tam quan Quang Minh Chính Trực, Trung Đạo kiều và cuối cùng là Bửu thành (mộ vua Minh Mạng). Lăng có diện tích 18 ha (nhưng diện tích cấm địa quanh lăng là 475 ha), xung quanh lăng có La thành bao bọc. Cửa chính của lăng tên là Đại Hồng môn, là cửa chỉ để rước linh cữu của vua nhập lăng. Hai bên cửa chính là hai cửa Tả Hồng môn và Hữu Hồng môn. Hồ Trừng Minh gồm hai nửa nối thông với nhau ở phía sau điện Sùng Ân nơi có ba cây cầu đá bắc qua, giống như hai lá "phổi xanh", bao bọc lấy điện Sùng Ân và các kiến trúc vòng ngoài nằm trên trục thần đạo (khu vực tưởng niệm). Ở giữa hai hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt, trên đường thần đạo, là Minh Lâu. Hồ Tân Nguyệt hình vầng trăng non ôm lấy một phần khu mộ vua (Bửu thành). Bửu thành là một quả đồi thông hình tròn, bao quanh bởi tường thành, bên trong, sâu bên dưới là mộ vua. Ở chính giữa hồ Tân Nguyệt có một cây cầu mang tên Trung Đạo kiều, nối Minh Lâu với Bửu thành và đường dạo quanh lăng. Phía sau Bửu Thành là rừng thông xanh thẳm, đem lại một cảm giác u tịch. Trên mặt cắt kiến trúc dọc theo đường thần đạo, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật nhất quán, âm dương xen kẽ, tạo nên nét đẹp riêng cho công trình kiến trúc lăng tẩm này. Bố cục kiến trúc đăng đối của các hạng mục chính trong lăng đem lại cho lăng một vẻ uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ. Tuy vậy, ở ngoài rìa, men theo con đường dạo quanh co vòng quanh hai hồ nước và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh như: đình Điếu Ngư, gác Nghênh Phong, hiên Tuần Lộc, sở Quan Lan, T
Download Đề tài Lăng Minh Mạng trong hệ thống lăng tẩm Huế miễn phí
Nhà bia mà chúng ta đang tham quan là một ngôi nhà cô lầu, hình vuông ba tầng, bên trong có bia “Thánh đức thần công” ghi bài văn bia của vua Thiệu Trị dựng năm 1842 kể về tiểu sử và công đức của vua cha. Trên nhà bia có khắc 8 chữ lớn “Thánh nhân, thần võ, chí nhân, đại đức” để ca ngợi công đức của vua cha “Như thần, như thánh”. Vì theo thông lệ, sau khi vua băng hà thì người con trai kế vị sẽ làm bia cho cha của mình. Nói tới công lao của 13 vị vua nhà Nguyễn thì Minh Mạng được xem là ông vua văn võ song toàn, thời kỳ trị vì của vua được xem là thời kỳ phát triển phồn thịnh nhất, công lao lớn nhất của ông chính là đã xác định được chủ quyền của dân tộc, vẽ được sơ đồ nước Đại Nam, mở mang bờ cõi. Vua Minh Mạng là vị vua rất sùng bái nho học và là một ông vua kiên quyết độc tài nhưng là người rất có trách nhiệm đối với đất nước. Nếu như vua Gia Long được đánh giá là người có công trong việc kiến lập nên vương triều Nguyễn thì vua Minh Mạng là người được đánh giá rất cao trong việc kiến thiết vương triều.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
TRƯỜNG ĐẠI HOẠC QUẢNG NAMKHOA VĂN HÓA – DU LỊCH
BÀI THUYẾT MINH LĂNG MINH MẠNG
Nhóm sinh viên thực hiện và mức độ tham gia:
Sinh viên thực hiện Mức độ tham gia
Lê Đình Đông A
Nguyễn Luật B
Nguyễn Hoàng Vinh B
Lê Thị Kim A
Trần Thị Kim Anh B
Phạm Thị Phượng A
SulyVông B
Lăng Minh Mạng
Xin chào Quý khách, hôm nay tui rất vui khi được dẫn đoàn chúng ta đến thăm quan lăng vua Minh Mạng. tui xin tự giới thiệu tui tên là Lê Đình A, là Hướng dẫn viên của công ty du lịch Hội An Travel , chúc cả đoàn sức khỏe, có một chuyến đi thú vị và bổ ích.
Bây giờ thì xe của đoàn chúng ta đang lăn bánh trên thành phố Huế chỉ còn ít phút nữa thôi chúng ta sẽ có mặt tại lăng Minh Mạng.
Lăng Minh Mạng tọa lạc trên bờ sông hương, thuộc huyện Hương Trà nay là thành phố Huế, thỉnh Thừa Thiên Huế.
Vâng! như quý khách đã biết Huế là nơi còn bảo lưu khá nguyên vẹn hệ thống các thành quách cung điện, lăng tẩm của triều đại nhà Nguyễn. Nếu tham quan Đại Nội, người ta gọi đó là “Hoàng cung thứ nhất” dành cho 13 vị vua triều Nguyễn từ vua Gia Long đến vị vua cuối cùng là Bảo Đại thì đi ngược dòng sông Hương về phía Tây của thành phố Huế là các khu lăng tẩm, nơi yên nghỉ của các vua được xem là “Hoàng cung thứ hai” khi về cõi vĩnh hằng.
Trải qua 143 tồn tại (1802-1945), triều Nguyễn có tất cả 13 vị vua. Nhưng do những lí do lịch sử khác nhau nên chỉ có 7 vị vua có lăng tẩm, đa số các lăng này đều tọa lạc ở bờ Nam sông Hương.
Trải qua một chặng đường dài cuối cùng đoàn chúng ta cũng đã đến với lăng Minh Mạng.
Giờ đây thì đoàn nhà mình đang đứng trên địa phận lăng Minh Mạng. Trước tiên tui xin giới thiệu tổng quát về lịch sử xây dựng lăng:
Vâng thưa đoàn nhà mình! Thời đó thì vua Gia Long là Vị Vua đầu tiên của triều Nguyễn ông lên ngôi vua năm 1802 đến 1820 làm vua được 18 năm nhà vua mất. Sau khi Vua Gia Long mất thì con trai thứ 4 là Minh Mạng lên ngôi lấy niên hiệu là vua Minh Mạng. Minh Mạng là một người rất thông minh, hiếu học, tài kiêm văn võ, ông lên ngôi vua năm 30 tuổi và trị vì trong vòng 20 năm từ năm 1820 đến 1840, thọ 50 tuổi.
Việc cân nhắc xây dựng lăng của vua Minh Mạng cũng như các ông vua khác là luôn chú trọng đến địa lý phong thủy để xây lăng với ước muốn con cháu mình sau này sẽ tiếp nối vương đế. Ngoài yếu tố địa lý phong thủy, theo tập quán chung của các triều đại, các vua thường đề cao Dịch lý: “Thánh nhân Nam diện nhi thính thiên hạ, hướng minh nhi trị”, có nghĩa “Vua quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ, hướng về lẽ sáng để làm việc nước”. Vì vậy mà toàn bộ công trình xây dựng các Lăng của các ông vua triều Nguyễn đều theo một trục căn bản quay về hướng Nam, một phong tục mà không chỉ vua chúa Việt Nam mà cả Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản đều chọn trong chương trình thiết kế Kinh đô hay Lăng tẩm.
Cũng như vua cha là Gia Long sau khi qua đời vua Minh Mạng cũng cho xây dựng nơi yên nghĩ cuối cùng của của mình. Sau khi làm vua được 7 năm, Minh Mạng cho người đi tìm đất để xây dựng Sơn lăng cho mình. Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một chỗ đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành con sông Hương thơ mộng. Nhưng phải ròng rã 14 năm cân nhắc, chọn lựa, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này. Nhà vua cho đổi tên núi Cẩm Kê (thuộc ấp An Bằng, huyện Hương Trà) thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế do các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên. Tháng 4 năm 1840, công cuộc kiến thiết Hiếu Lăng bắt đầu. Vua sai các quan Lê Đăng Danh, Nguyễn Trung Mậu và Lý Văn Phức điều khiển lính và thợ thuyền lên đây đào hồ đắp La thành. Tháng 8 năm 1840, Minh Mạng lên kiểm tra thấy công việc đào hồ Trừng Minh không vừa ý nên giáng chức các quan trông coi và đình chỉ công việc. Một tháng sau, công việc vừa được tiếp tục thì Minh Mạng lâm bệnh qua đời vào tháng 1 năm 1841. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau (tháng 2-1841) đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại. Ngày 20 tháng 8 năm 1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm 1843 mới hoàn tất. Để xây dựng lăng vua huy động gần 1 vạn lính thợ trước tiên vua Minh Mạng cho đào hồ Trừng Minh, đổ đá cho có kẻ hở để dẫn nước từ núi Cẩm Khê vào 2 hồ theo thế Chi huyền thủy ( tức là nước trong hồ chảy từ trái sang phải theo hình chữ “Chi“ ), sau này là hồ Trừng Minh và hồ Tân Nguyệt. Bên cạnh coi trọng mạch nước, các vua nhà Nguyễn quan niệm mạch nước là huyết mạch của rồng, đất là thịt rồng, đá là xương và hoa lá là râu tóc của rồng nên cảnh quan của lăng vẫn giữ được cho đến ngày hôm nay.
Trước khi tham quan cụ thể lăng Minh Mạng tui xin giới thiệu tổng quát về bố cục kiến trúc của lăng:
Vâng! trước mắt đoàn chúng ta sơ đồ tham quan lăng Minh Mạng
Nhìn vào sơ đồ thì Lăng Minh Mạng có bố cục kiến trúc cân bằng đối xứng, xung quanh một trục kiến trúc là đường thần đạo, xuyên qua một loạt các hạng mục công trình gồm: cửa chính, sân chầu, nhà bia, sân tế, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân (thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu), hồ Trừng Minh, Minh Lâu, hồ Tân Nguyệt (trăng non), cổng tam quan Quang Minh Chính Trực, Trung Đạo kiều và cuối cùng là Bửu thành (mộ vua Minh Mạng). Lăng có diện tích 18 ha (nhưng diện tích cấm địa quanh lăng là 475 ha), xung quanh lăng có La thành bao bọc. Cửa chính của lăng tên là Đại Hồng môn, là cửa chỉ để rước linh cữu của vua nhập lăng. Hai bên cửa chính là hai cửa Tả Hồng môn và Hữu Hồng môn. Hồ Trừng Minh gồm hai nửa nối thông với nhau ở phía sau điện Sùng Ân nơi có ba cây cầu đá bắc qua, giống như hai lá "phổi xanh", bao bọc lấy điện Sùng Ân và các kiến trúc vòng ngoài nằm trên trục thần đạo (khu vực tưởng niệm). Ở giữa hai hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt, trên đường thần đạo, là Minh Lâu. Hồ Tân Nguyệt hình vầng trăng non ôm lấy một phần khu mộ vua (Bửu thành). Bửu thành là một quả đồi thông hình tròn, bao quanh bởi tường thành, bên trong, sâu bên dưới là mộ vua. Ở chính giữa hồ Tân Nguyệt có một cây cầu mang tên Trung Đạo kiều, nối Minh Lâu với Bửu thành và đường dạo quanh lăng. Phía sau Bửu Thành là rừng thông xanh thẳm, đem lại một cảm giác u tịch. Trên mặt cắt kiến trúc dọc theo đường thần đạo, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật nhất quán, âm dương xen kẽ, tạo nên nét đẹp riêng cho công trình kiến trúc lăng tẩm này. Bố cục kiến trúc đăng đối của các hạng mục chính trong lăng đem lại cho lăng một vẻ uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ. Tuy vậy, ở ngoài rìa, men theo con đường dạo quanh co vòng quanh hai hồ nước và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh như: đình Điếu Ngư, gác Nghênh Phong, hiên Tuần Lộc, sở Quan Lan, T