Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TỚI MÔI TRƯỜNG VÀ SINH VẬT
Sử dụng phân bón hoá học và hợp chất bảo vệ thực vật là chìa khoá thành công của cuộc cách mạng xanh, trong nền nông nghiệp, công nghiệp hoá (nông nghiệp đầu tư cao) để đảm bảo nhu cầu về lương thực, thực phẩm. Tuy nhiên, những năm gần đây có nhiều dấu hiệu đáng lo ngại do sự ảnh hưởng của phân bón hoá học, hoá chất bảo vệ thực vật đến môi trường và sức khoẻ con người. Vấn đề này không chỉ xảy ra ở các nước phát triển mà nó đang ngày trở lên nghiêm trọng ở các nước đang phát triển. Khi người nông dân áp dụng những công nghệ hiện đại (như giống mới, phân hoá học, hoá chất bảo vệ thực vật (HCBVTV), máy móc, thiết bị tưới tiêu....) Đã nảy sinh rất nhiều vấn đề môi trường:
- Gây độc hại cho nguồn nước, cho đất bởi thuốc trừ sâu, N03-, do đó tác động xấu đến sức khoẻ con người, động vật hoang dại và suy thoái các hệ sinh thái.
- Gây nhiễm độc lương thực, thực phẩm thức ăn cho gia súc bởi dư lượng thuốc trừ sâu, NO3- và chất kích thích sinh trưởng.
- Gây xói mòn đất, giảm độ phì của đất do xu hướng sử dụng nhiều phân bón hoá học thay cho phân hữu cơ.
- Gây mặn hoá thứ sinh do tưới tiêu không hợp lý.
- Gây ô nhiễm không khí do sự khuyếch tán của HCBVTV.
- Chặt phá rừng, mở rộng diện tích canh tác gây suy thoái nguồn nước ngầm, làm mất dần và có nguy cơ tuyệt chủng nhiều loài động vật hoang dã.
- Xu thế tiêu chuẩn hoá, chuyên canh hoá tập trung vào một số giống cây, con mới đồng nhất về di truyền trong nông nghiệp dẫn đến sự thay thế dần và biến mất những giống loài truyền thống – cơ sở di truyền để cải tạo giống là nguồn gen dự trữ quan trọng trong tương lai.
1. Ô nhiễm môi trường từ phân bón hoá học:
Nitrat (N03-) là yếu cần thiết cho sinh trưởng và phát triển của nhiều loài cây trồng, đồng thời nó cũng được xem là mối đe doạ cho sức khoẻ con người và tính trong sạch của các nguồn nước tự nhiên. Tính trung bình, khi bón phân đạm vào đất thực vật chỉ hấp thụ được khoảng 50 - 60%, số còn lại đi vào các nguồn khác.
Mặc dù thực vật rất cần nitơ nhưng ion NO3- gần như không bị đất hấp thụ và luôn tồn tại ở dạng linh động dễ bị rửa trôi vào các nguồn nước. Một nghiên cứu vào năm 1972 ở Anh cho thấy có hiện tượng phú dưỡng ở cả 18 con sông nghiên cứu. Nhiều kết quả nghiên cứu bằng phương pháp nguyên tử đánh dấu đã khẳng định N-NH4 tronh nước có nguồn gốc từ nitơ bón vào đất. Như vậy nguồn gốc N03- trong nước là do phân bón vô cơ và hữu cơ đậc biệt khi người nông dân bón không đúng lúc, bón thúc vào thời kỳ cây không cần và bón không đều.
Ô nhiễm nỉtat không phải là vấn đề mới, cách đây hàng trăm năm người ta đã ghi nhận nồng độ coa của nó trong các giếng nước ăn nhưng phát hiện mới nhất là NO3- liên quan tới sức khoẻ cộng đồng thể hiện qua 2 loại bệnh:
- Methaemoglobinaemia: Trè xanh ở trẻ sơ sinh.
- Ung thư dạ dày ở người lớn.
Thực ra NO3- không độc, nhưng khi nó bị khử thành nỉtit(NO2-) trong cơ thể nó trở nên rất độc. NO3- trong dạ dày bị các vi khuẩn khử thành NO2- và sâm nhập vào máu, nó phản ứng với haemoblobin chứa Fe2+ ( đây là phân tử có chức năng vận chuyển O2 đi khắp cơ thể) tạo ra methaemoglobinaemia chứa Fe3+ có rất ít năng lực vận chuyển O2 và trẻ sơ sinh rất mẫn cảm với bệnh này do trong dạ dày của chungs không đủ axit để ngăn cản các vi khuẩn biến đổi NO3- thành NO2-.
Ung thư dạ dày cũng là bệnh liên quan tới hàm lượng NO3trong nước và do quá trình biến đổi từ NO3- thành NO2 phản ứng với một loại amin thứ sinh xuất hiện khi phân huỷ mỡ hay prôtêin ở bên trong dạ dày tạo ra hợp chất N – nitroso( chất gây ung thư). Vì tính chất nguy hiểm của NO3 đối với sức khoẻ cộng đồng nên châu Âu qui định mức chuẩn cho nước uống là 50g NO3 -/m3, giá trị tối ưu không quá 25g NO3/m3.
2. Ô nhiễm môi trường do HCBVTV:
Việc sử dụng HCBVTV trong nông nghiệp đã làm nảy sinh nhiều vấn đề môi trường. Định hướng của thuốc trừ sâu là diệt sâu hại, nhưng diễn biến thực tế của lại ảnh hưởng độc tới đất, nước, không khí, đại dương và các sản phẩm nông nghiệp, động vật sức khoẻ con người đặc biệt những dư lượng của những chất do tính độc cao như chlordane, DDT, picloram, zimazine...
Một đặc tính quan trọng của HCBVTV trong hệ sinh thái là tính khuyếch đại sinh học. Từ nồng độ sử dụng nhỏ, sau khi vào hệ sinh thái thông qua chuỗi lưới thức ăn chất độc được tích luỹ với nồng độ cao dần qua các bậc dinh dưỡng. Hầu hết các loại HCBVTV đều độc đối với người và động vật máu nóng, tuy nhiên mức độ gây độc của mỗi loại thuốc có khác nhau, có loại thuốc gây độc cấp tính, có loại thuố có tính tích luỹ lâu trong cơ thể sống, bền vững trong môi trường. Các kết quả nghiên cứu cho thấy có đến 90% HCBVTV không đạt mục đích mà gây nhiễm độc đất, nước, nông sản. Việc sử dụng lặp lại nhiều lần cùng một loại thuốc ở nhiều nước đang phát triển do được bao cấp, trợ giá dẫn đến hiện tượng quen thuốc buộc phải sử dụng các chủng loại HCBVTV khác có độc tính cao hơn và càng xúc tiến rủi ro về môi trường cũng như nghề nghiệp.
Theo kết quả báo cáo của viện bảo vệ thực vật năm 1999, hiện nay trên thị trường Việt Nam có 270 loại thuốc diệt côn trùng, 216 loại thuốc diệt nấm, 160 loại thuốc diệt cỏ, 12 loại thuốc diệt gậm nhấm và 26 loại thuốc kích thích sinh trưởng. Điều đáng là 60% tổng số hoá chất trên được sử dụng phun cho rau quả mà phần lớn nông dân lại không hiểu đầy đủ về tác dụng, chức năng của mỗi loại thuốc cho nên họ thường phun sai chủng loại, liều lượng cũng như thời gian cho phép.
Ví dụ trung bình từ 1 đến 3 ngày họ lại phun thuốc kích thích tăng trưởng và thuốc trừ sâu cho dưa chuột và đậu. Năm 1990 lượng HCBVTV được sử dụng là 10.300 tấn đến năm 1998 đã tăng lên 33.000 tấn. Rất nhiều vụ ngộ độc do HCBVTV gây ra ở các quy mô và mức độ khác nhau. Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do HCBVTV nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đã chú ý đến việc quản lý sâu hại tổng hợp( IPhần mềm ) để kìm dữ sâu bệnh ở mức chấp nhận được. IPhần mềm bao gồm việc sử dụng thuốc trừ sâu một cách có chọn lọc và dựa trên việc áp dụng các biện pháp sinh học, tính đề kháng di truyền và thực tiễn quản lý thích hợp./.
ô nhiễm đất
Đất được hình thành từ đá qua quá trình phong hoá. Khi sự sống trên trái đất chưa xuất hiện, thì vòng đại tuần hoàn địa chất là quá trình phong hoá đá đã dần dần hình thành phần không sống của hệ sinh thái đất (các chất khoáng, các dạng nước, các chất khí) gọi là mẫu chất tạo tiền đề cho sinh vật phát triển. Kể từ khi có những sinh vật đơn bào đầu tiên xuất hiện trên mẫu chất là lúc xuất hiện một vòng tuần hoàn mới – vòng tiểu tuần hoàn sinh học.
Như vậy tự bản thân môi trường đất đã có cấu trúc, chức năng như là một hệ sinh thái, một mẫu hình của hệ thống mở. Tuy nhiên sự tự điều chỉnh của hệ sinh thái đất có một giới hạn nhất định. Nếu sự thay đổi vượt quá giới hạn này, hệ sinh thái đất sẽ mất khả năng tự điều chỉnh và hậu quả là đất bị ô nhiễm và thoái hoá. Sự ô nhiễm môi trường đất là hậu quả của các hoạt động của con người, làm thay đổi các nhân tố sinh thái quá ngưỡng của các quần xã sống trong đất. Muốn kiểm soát được ô nhiễm môi trường đất cần biết giới hạn sinh thái của các quần xã sống trong đất đối với từng nhân tố sinh thái. Xử lý ô nhiễm tức là điều chỉnh và đưa các nhân tố sinh thái trở về giới hạn sinh thái của quần xã sinh vật đất. Đây là nguyên lý sinh thái cơ bản được vận dụng vào việc sử dụng hợp lý tài nguyên đất và bảo vệ môi trường. Bản chất của sự xác lập cân bằng là quá trình tự điều chỉnh năng lượng và vật chất giữa 3 loại sinh vật: sinh vật sản xuất, sinh vật tiêu thụ và sinh vật phân huỷ. Thông thường tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái đất cao hơn so với hệ sinh thái nước, không khí nên khả năng tự lập lại cân bằng của nó cũng cao hơn.
I. Khái niệm:
Sự ô nhiễm môi trường đất là do hậu quả các hoạt động cuả con người làm thay đổi các nhân tố sinh thái quá ngưỡng sinh thái của những quần xã sinh vật sống trong đất.
II. Nguyên nhân:
Bình thường hệ sinh thái đất luôn tồn tại ở trạng thái cân bằng. Khi có mặt một số chất mà hàm lượng của chúng vựot quá ngưỡng cho phép thì hệ sinh thái đất sẽ mất cân bằng, môi trường đất bị ô nhiễm và thoái hoá. Có nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm đất trong đó có một số nguyên nhân chính gây ô nhiễm đất ở Việt Nam là:
1. áp lực tăng dân số đòi hỏi nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng tăng và phải đẩy mạnh khai thác độ phì nhiêu của đất bằng cách:
- Tăng cường sử dụng hoá chất như phân vô cơ, thuốc trừ sâu diệt cỏ…vv.
- Sử dụng chất kích thích sinh trưởng làm giảm thất thoát và tạo thuận lợi cho thu hoạch.
- Mở rộng các hệ thống tưới tiêu.
2. Việc đẩy mạnh công nghiệp hoá và đô thị hoá không có kế hoạch quản lý môi trường đã làm ô nhiễm nặng nề các vùng ven đô thị và khu công nghiệp. Các tác nhân chính gây ô nhiễm đất ở đây là không khí ô nhiễm, nước thải, chất thải rắn của các cơ sở trên.
3. Do hậu quả chiến tranh (thuốc diệt cỏ do Mỹ sử dụng ở miền Nam Việt Nam) đã gây ảnh hưởng lâu dài đến con người, tự nhiên trên những vùng đất rộng lớn.
Như vậy nguyên nhân chính gây ô nhiễm đất ở Việt Nam là sử dụng không hợp lý phân bón, hoá chất bảo vệ thực vật, chất kích sinh trưởng, chất thải không qua xử lý của các khu dân cư, đô thị và các khu công nghiệp, chất độc trong chiến tranh…vv, gây ô nhiễm khá nghiêm trọng ở một số nơi. Tuy nhiên về quy mô vùng bị ô nhiễm không lớn, chỉ xẩy ra ở ven một số thành phố lớn, khu công nghiệp làng nghề truyền thống không có công nghệ xử lý chất thải độc hại và những vùng chuyên canh, thâm canh sử dụng phân bón, hoá chất bảo vệ thực vật không hơp lý, không có sự quản lý chặt chẽ.
II. Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường đất:
1. Tác nhân hoá học:
Loại ô nhiễm này được gây ra do một số nguồn: Chất thải công nghiệp, giao thông, chất thải sinh hoạt, đặc biệt là việc sử dụng phân hoá học, hoá chất bảo vệ thực vật, các chất kích thích sinh trưởng…làm cho đất bị ô nhiễm kim loại nặng, Nitơrát…ở Việt Nam ô nhiễm đất bởi kim koại nặng nhìn chung không phổ biến tuy nhiên nhiều trường hợp cục bộ gần khu công nghiệp, đặc biệt ở các làng nghề tình trạng ô nhiễm kim loại nặng đang diễn ra khá trầm trọng.
Bảng 1: Hàm lượng Pb trong bùn và trong đất tại xã Chỉ Đạo, Mỹ Văn, Hưng Yên. ( Nguồn: Lê Văn Khoa-2002).
stt mẫu nghiên cứu hàm kượng chì (ppm)
1
2
3
4 Mẫu bùn trong ao chứa nước thải phá ắc quy
Mẫu đất lúa gần nơi nấu chì
Mẫu đất giữa cánh đồng
Mẫu đất gần làng 2166.0
387.6
125.4
2911.4
Hàm lượng chì lớn hơn 100 pPhần mềm được đánh giá là đất bị ô nhiễm.
2. Ô nhiễm đất do tác nhân vật lý:
a. Ô nhiễm nhiệt:
Khi nhiệt độ trong đất tăng sẽ gây ra những ảnh hưởng lớn đến khu hệ vi sinh vật đất phân giải chất hữu cơ và nhiều trường hợp làm đất chai cứng, mất dinh dưỡng. Nhiệt độ trong đất tăng, dẫn đến hàm lượng mất O2 giảm gây mất cân bằng và quá trình phân huỷ các chất hữu cơ sẽ diễn ra theo kiểu hô hấp kỵ khí, tạo ra nhiều sản phẩm trung gian có mùi khó chịu và độc cho cây trồng, động vật như: NH3, H2S, CH4 và Alđêhyt.... Nguồn gây ô nhiễm nhiệt là do sự thải bỏ nước làm mát các thiết bị của các nhà máy. Nước này có thể làm nhiệt độ của đất tăng từ 5- 150C gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đất. Ngoài ra nguồn ô nhiễm nhiệt còn do những đám cháy rừng, phát nương đốt rẫy trong du canh làm nhiệt độ đất tăng đột ngột từ 15- 300C huỷ diệt nhiều sinh vật có ích trong đất, đất trở nên chai cứng.
b. Ô nhiễm do các chất phóng xạ:
Do phế thải của những trung tâm khai thác các chất phóng xạ, trung tâm nghiên cứu nguyên tử, nhà máy điện nguyên tử, các bệnh viện và những vụ thử vũ khí hạt nhân. Các chất phóng xạ thâm nhập vào đất, theo chu trình dinh dưỡng tới cây trồng, động vật và con người. Sau mỗi vụ thử vũ khí hạt nhân chất phóng xạ trong đất tăng lên10 lần và khi đi vào sinh vật nó cũng có hiện tượng khuyếch đại sinh học. Các chất phóng xạ (Sn90,I131Cs137) xâm nhập vào cơ thể con người làm thay đổi cấu trúc tế bào, gây ra các bệnh di truyền, bệnh về máu, ung thư…
3. Ô nhiễm đất do tác nhân sinh học:
Do các phương pháp đổ bỏ chất thải mất vệ sinh, sử dụng phân bắc tươi, bùn ao tươi, bùn kênh dẫn chất thải sinh hoạt bón trực tiếp vào đất. Hiện nay các vùng nông thôn miền Bắc Việt Nam tập quán sử dụng phân bắc và phân chuồng tươi trong canh tác vẫn còn phổ biến. Chỉ tính riêng trong nội thành Hà Nội, hàng năm lượng phân bắc thải ra khoảng 550.000 tấn và chỉ khoảng 1/3 số đó được xử lý. ở các vùng nông thôn phía Nam đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long, phân tươi được coi là nguồn thức ăn cho cá. Tập quán sử dụng phân tươi, nước thải bón, tưới trực tiếp cho đất đã gây ô nhiễm sinh học nghiêm trọng cho môi trường đất, không khí, nước, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.
Bảng 2: Số lượng các loại vi trùng và trứng giun
stt đối tượng nghiên cứu vi trùng E-Coli trong 100 gam đất số trứng giun trong 50g phân hay trong 1000ml nước
giun đũa giun tóc
1
2
3
4
5
6
7
8 Phân bắc tươi trộn tro bếp
Phân bắc đã ủ 2 tháng
Đất vừa tưới phân bắc
Đất tưới phân bắc sau 20 ngày
Đất vừa tưới phân tươi
Đất chỉ dùng phân hoá học
Nước mương khu trồng rau tưới phân bắc
Nước giếng khu trồng rau tưới phân bắc 107
105
105
105
105
102
450
20 31
12
22
13
5
3
3
7 16
7
10
5
1
( Nguồn: Trần Khắc Thi, 1996)
IV. Biện pháp kiểm soát ô nhiễm đất.
• Làm sạch cơ bản:
Mục đích chính là phòng ngừa sự nhiễm trùng đất có nguồn gốc từ phân, nước thải sinh hoạt, nước thải bệnh viện.... Các ngồn này phải được sử lý trước khi thải ra môi trường để tránh làm nhiễm bẩn nước ngầm hay nước bề mặt.
*Khử chất thải rắn: rác gia đình, phế liệu xây dựng, phế liệu công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp... đây là môi trường thuận lợi cho ruồi, muỗi, các loài gặm nhấm phát triển. Ngoài ra chúng còn góp phần làm ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí... làm tổn hại đến chất lượng môi trường xung quanh. Các thiết bị xử lý thường dùng một hay nhiều những kỹ thuật như: lựa chọn, đốt cháy, trộn phân, phun, nghiền, làm đặc.... ở các nước công nghiệp phát triển, nhiều khu vực đất đai bị ô nhiễm nặng, người ta sử dụng các hệ thống cơ hoá lý nhằm ngăn ngừa sự chuyển động của các chất gây ô nhiễm do rửa trôi, hoạt động mao quản và di chuyển khí.
Các hệ thống nhằm ngăn chặn sự chuyển động của các chất gây ô nhiễm do rửa trôi, hoạt động mao quản và di chuyển khí:
Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
Lĩnh vực kinh tế:
+ Giảm đều mức tiêu phí năng lượng và những tài nguyên khác thông qua các công nghệ mới và qua thay đổi lối sống.
+ Thay đổi các hình thức tiêu thụ ảnh hưởng đến đa dạng sinh học của các nước khác.
+ Giảm hàng rào nhập khẩu hay chính sách bảo hộ mậu dịch làm hạn chế thị trường cho các sản phẩm của những nước nghèo.
+ Sử dụng tài nguyên nhân văn, kỹ thuật và tài chính để phát triển công nghệ sạch và sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên.
+ Làm cho mọi người tiếp cận tài nguyên một cách bình đẳng.
+ Giảm chênh lệch về thu nhập và tiếp cận y tế.
+ Chuyển tiền từ chi phí quân sự và an ninh cho những yêu cầu phát triển.
+ Dùng tài nguyên cho việc cải thiện mức sống thường xuyên.
+ Loại bỏ cùng kiệt nàn tuyệt đối.
+ Cải thiện việc tiếp cận ruộng đất, giáo dục và các dịch vụ xã hội.
+ Thiết lập một ngành công nghiệp có hiệu suất cao để tạo công ăn việc làm và sản xuất hàng hoá cho thương mại và tiêu thụ.
Lĩnh vực nhân văn:
+ Ổn định dân số.
+ Giảm di cư đến các thành phố qua chương trình phát triển nông thôn,
+ Xây dựng những biện pháp mang tính chất chính sách và kĩ thuật để giảm nhẹ hậu quả môi trường cuả đô thị hoá.
+ Nâng cao tỷ lệ biết chữ.
+ Người dân tiếp cận dễ dàng hơn với dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu.
+ Cải thiện phúc lợi xã hội, bảo vệ tính đa dạng văn hoá và đầu tư vào vốn con người.
+ Đầu tư vào sức khoẻ và giáo dục của phụ nữ.
+ Khuyến khích sự tham gia vào những quá trình làm quyết định.
Lĩnh vực môi trường:
+ Sử dụng có hiệu quả hơn đất canh tác và cung cấp nước.
+ Cải thiện canh tác nông nghiệp và kĩ thuật để nâng cao sản lượng.
Clorofluorocacbon ( CFC): CFC là những hoá chất do con người tổng hợp để sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp và từ đó xâm nhập vào khí quyển. CFC 11 hay CFCl3 hay CFCl2 hay CF2Cl2 (còn gọi là freon 12 hay F12) là những chất thông dụng của CFC. Một lượng nhỏ CFC khác là CHC1F2 (hay F22), CCl4 và CF4 cũng xâm nhập vào khí quyển. Cả hai hợp chất CFC 11 và CFC 12 hay freon đều là những hợp chất có ý nghĩa kinh tế cao, việc sản xuất và sử dụng chúng đã tăng lên rất nhanh trong hai thập kỷ vừa qua. Chúng tồn tại cả ở dạng sol khí và không sol khí. Dạng sol khí thường làm tổn hại tầng ôzôn, do đó là sự báo động về môi trường, những dạng không sol khí thì vẫn tiếp tục sản xuất và ngày càng tăng về số lượng. CFC có tính ổn định cao và không bị phân huỷ. Khi CFC đạt tới thượng tầng khí quyển chúng sẽ được các tia cực tím phân huỷ.
Mêtan (CH4): Mêtan là một loại khí gây hiệu ứng nhà kính. Nó được sinh ra từ các quá trình sinh học, như sự men hoá đường ruột của động vật có guốc, cừu và những động vật khác, sự phân giải kỵ khí ở đất ngập nước, ruộng lúa, cháy rừng và đốt nhiên liệu hoá thạch. CH4 thúc đẩy sự ôxy hoá hơi nước ở tầng bình lưu. Sự gia tăng hơi nước gây hiệu ứng nhà kính mạnh hơn nhiều so với hiệu ứng trực tiếp của CH4. Hiện nay hàng năm khí quyển thu nhận khoảng từ 400 đến 765x1012g CH4
Một số chất khác:
- Các hợp chất flo.
- Các chất tổng hợp (ête, benzen).
- Các chất lơ lửng (bụi rắn, bụi lỏng, bụi vi sinh vật), nitrat, sunfat, các phân tử cacbon, sol khí, muội, khói, sương mù, phấn hoa.
- Các loại bụi nặng, bụi đất, đá, bụi kim loại như đồng, chì, sắt, kẽm, niken, thiếc, cađimi...
- Khí quang hoá như ozôn, FAN, FB2N, NOX, anđehyt, etylen...
- Chất thải phóng xạ
Tiến hành các biện pháp thiết thực để bảo vệ tài nguyên khí hậu như:
Ngăn chặn việc khai thác bừa bãi các loại rừng đầu nguồn, rừng tự nhiên và rừng ngập mặn. Rừng là giải pháp hữu hiệu nhất nhằm cải thiện chế độ mưa, chế độ ẩm và nhiệt độ của địa phương, đem lại điều kiện sinh thái thuận lợi cho sản xuất và con người.
Trồng mới các loại rừng, xây dựng cơ cấu rừng hợp lý cho từng vùng, tạo các kiểu rừng có kết cấu nhiều tầng để khai thác tối đa điều kiện không gian và nhanh chóng phủ đất, che bóng cho mặt đất, chống xói mòn, mức che phủ phải đạt trên 50% diện tích đất.
Củng cố và xây dựng các hồ chứa nước góp phần hạn chế dòng chảy, phân phối, điều hoà nước và làm tăng độ ẩm đất. Ðó là giải pháp điều tiết khí hậu rất có hiệu quả.
Quy hoạch hợp lý việc phát triển giao thông vận tải, phát triển công nghiệp, hạn chế tối đa việc giải phóng bừa bãi các chất thải vào môi trường, đặc biệt là các chất khí thải gây hiệu ứng nhà kính từ việc đốt các nhiên liệu hoá thạch như xăng dầu, than đá...
Tổ chức phòng chống thiên tai có hiệu quả, xây dựng và củng cố hệ thống dự báo về lụt, bão, cháy rừng..., tiến hành các biện pháp phòng chống kịp thời, chu đáo sẽ hạn chế được rất nhiều ảnh hưởng xấu của thiên tai.
II.8. Tài nguyên năng lượng
II.8.1. Khái niệm chung
Năng lượng là một dạng tài nguyên vật chất, xuất phát từ hai nguồn chủ yếu là năng lượng mặt trời và năng lượng lòng đất. Năng lượng là nền tảng cho nền văn minh và sự phát triển của xã hội. Con người cần năng lượng cho sự tồn tại của bản thân mình và phần quan trọng là để sản sinh ra công cho mọi hoạt động sản xuất và dịch vụ.
Dạng năng lượng thiên nhiên đầu tiên được con người sử dụng là năng lượng mặt trời dùng để soi sáng, sưởi ấm, phơi khô lương thực, thực phẩm, đồ dùng. Năng lượng dầu mỏ thay thế dần vị trí của than đá trong thế kỷ XX và từng bước chia sẽ vai trò của mình với năng lượng hạt nhân.
Các dạng năng lượng mới ít ô nhiễm như năng lượng mặt trời, nước, gió, thủy triều, năng lượng vi sinh vật thu nhận được với những phương tiện và công nghệ tiên tiến cũng đang mở rộng phạm vi hoạt động của mình.
II.8.2. Năng lượng mặt trời
Tiềm năng năng lượng mặt trời ở Việt Nam: Tiềm năng năng lượng mặt trời được phản ánh qua số giờ nắng. Trung bình năm ở nước ta có khoảng 1400 - 3000 giờ nắng. Ở phần trên đã nêu chi tiết phân bố số giờ nắng trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Theo bản đồ khí hậu về phân bố số giờ nắng có thể thấy sự phân bố của tiềm năng năng lượng mặt trời theo thứ tự giảm dần như sau:
- Lớn nhất là vùng đồng bằng duyên hải cực Nam Trung Bộ và một phần lãnh thổ phía Đông của Nam Bộ.
- Đại bộ phận khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ
- Phần lớn đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, vùng núi thấp và vừa ở sườn phía Tây Hoàng Liên Sơn.
- Ít nhất là sườn phía Đông Hoàng Liên Sơn và phần lớn khu vực Đông Bắc.
Việc sử dụng năng lượng ở nước ta được phân ra theo các khu vực như sau:
Dân dụng 67%
Công nghiệp 22%
Giao thông 7%
Nông nghiệp và các khu vực khác 4%
Trước đây, người ta sử dụng năng lượng mặt trời chủ yếu trong việc phơi, sấy lúa, gạo và các sản phẩm nông nghiệp cần bảo quản khô, hay trong công nghiệp chế biến thủy hải sản dùng để hong khô cá, tôm…hay lợi dụng để làm nước mắm, nước tương…Ngày nay, năng lượng mặt trời được sử dụng trong một số lĩnh vực cộng nghệ cao như: tấm pin năng lượng mặt trời, điện năng lượng mặt trời, các thiết bị sử dụng nhờ năng lượng mặt trời…
II.8.3. Năng lượng gió
Tiềm năng năng lượng gió phụ thuộc vào tốc độ gió trung bình V và hệ số năng lượng mẫu k. Do sự phân hóa của tiềm năng năng lượng gió phụ thuộc chủ yếu vào sự phân hóa của tốc độ gió trung bình, nên nói chung sự phân bố của năng lượng gió tương tự như sự phân bố của tốc độ gió trung bình.
Phân bố tổng năng lượng gió trung bình năm trên lãnh thổ Việt Nam là: Tiềm năng năng lượng gió tăng lên từ đất liến ra ngoài khơi; và có khuynh hướng giảm khi càng gần xích đạo. Tiềm năng lớn nhất tại các đảo phía Đông lãnh thổ, tổng năng lượng năm W > 4000kwh/m2, trên các đảo xa bờ. Tại các đảo phía Nam giảm dần chỉ từ 400 - 900kwh/m2.
Ở vùng ven biển có tiềm năng đáng kể. Trên bờ biển thoáng của Bắc Bộ và Trung Bộ, tiềm năng W từ 800 - 1000kwh/m2, ven biển phía Đông Nam Bộ - từ 600 - 800kwh/m2 và giảm đi ở ven biển phía Nam và phía Tây.
Ở đồng bằng Bắc Bộ, theo chiều từ trung du ra biển, tiềm năng W tăng từ 250 đến 800 - 1000kwh/m2. Trên dải đồng bằng hẹp Trung Bộ, ở những nơi mà dãy Trường Sơn hạ xuống thấp, tiềm năng khá phong phú, khoảng 700 - 800kwh/m2, có nơi tới 1000kwh/m2. Những khu vực bị ảnh hưởng hưởng bởi sự che chắn của khối núi đồ sộ Trường Sơn như phía Tây Quảng Nam - Quảng Ngãi, chỉ vài ba trăm kwh/m2.
Ở đồng bằng Nam Bộ, phân bố tiềm năng năng lượng gió đồng đều hơn, khoảng 300 - 450kwh/m2 và tăng lên đến 500 - 600kwh/m2 khi ra gần tới biển. Ở trung du và núi thấp W nhỏ có giá trị dưới 200kwh/m2. Vùng núi Đông Bắc Bắc Bộ tiềm năng lớn hơn vùng núi Tây Bắc và vùng núi phía Bắc. Ở Tây Nguyên, mặc dầu gió không mạnh, nhưng do hệ số năng lượng mẫu k lớn nên tiềm năng tương đối khá, trên cao nguyên thoáng, W có thể đạt 600kwh/m2.
Phân bố năng lượng gió trung bình năm là một thông tin ban đầu quan trọng đối với mục đích sử dụng và cách khai thác nguồn tiềm năng này với điều kiện cụ thể của từng địa phương.
Kế hoạch phát triển nguồn điện đến năm 2010 của Tổng Công ty điện lực Việt Nam có nêu: Chú trọng phát triển thủy điện nhỏ, điện mặt trời, điện gió ở những vùng xa xôi, hẻo lánh.
Phát triển, khai thác sử dụng năng lượng tái tạo, trong đó có năng lượng gió được đề cập đến trong chính sách phát triển nông thôn, miền núi phục vụ xóa đói, giảm nghèo.
II.8.4. Năng lượng thủy triều
Nói chung, dao động mực nước triều ở biển Việt Nam không thuộc loại lớn, không phải là nơi công suất nhiều triển vọng để xây dựng các nhà máy điện thủy triều lớn như các địa điểm khác trên thế giới. Tuy nhiên, vùng biển nước ta có một hệ thống vùng vịnh ven biển có thể tận dụng khai thác năng lượng thủy triều.
II.8.5. Các giải pháp về năng lượng của loài người
- Việc đầu tư triển khai công nghệ chống ô nhiễm môi trường trong các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than, dầu có tác động giảm thiểu các chất thải ra môi trường
Việc tăng giá năng lượng như giá điện, giá xăng dầu, than cũng có thể là một biện pháp để giảm sự lãng phí năng lượng, khuyến khích đầu tư cho các công nghệ sạch, các dạng năng lượng khác.
- Tăng cường đầu tư nghiên cứu phát triển các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái sinh theo hướng hạ giá thành sản xuất sao cho chúng có thể cạnh tranh các nguồn năng lượng truyền thống.
- Nghiên cứu các qui trình sản xuất, thiết bị sản xuất để tiết kiệm năng lượng. Nghiên cứu sử dụng năng lượng sạch trong một số lĩnh vực dễ gây ra tác động xấu đến môi trường như giao thông, sinh hoạt,...
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TỚI MÔI TRƯỜNG VÀ SINH VẬT
Sử dụng phân bón hoá học và hợp chất bảo vệ thực vật là chìa khoá thành công của cuộc cách mạng xanh, trong nền nông nghiệp, công nghiệp hoá (nông nghiệp đầu tư cao) để đảm bảo nhu cầu về lương thực, thực phẩm. Tuy nhiên, những năm gần đây có nhiều dấu hiệu đáng lo ngại do sự ảnh hưởng của phân bón hoá học, hoá chất bảo vệ thực vật đến môi trường và sức khoẻ con người. Vấn đề này không chỉ xảy ra ở các nước phát triển mà nó đang ngày trở lên nghiêm trọng ở các nước đang phát triển. Khi người nông dân áp dụng những công nghệ hiện đại (như giống mới, phân hoá học, hoá chất bảo vệ thực vật (HCBVTV), máy móc, thiết bị tưới tiêu....) Đã nảy sinh rất nhiều vấn đề môi trường:
- Gây độc hại cho nguồn nước, cho đất bởi thuốc trừ sâu, N03-, do đó tác động xấu đến sức khoẻ con người, động vật hoang dại và suy thoái các hệ sinh thái.
- Gây nhiễm độc lương thực, thực phẩm thức ăn cho gia súc bởi dư lượng thuốc trừ sâu, NO3- và chất kích thích sinh trưởng.
- Gây xói mòn đất, giảm độ phì của đất do xu hướng sử dụng nhiều phân bón hoá học thay cho phân hữu cơ.
- Gây mặn hoá thứ sinh do tưới tiêu không hợp lý.
- Gây ô nhiễm không khí do sự khuyếch tán của HCBVTV.
- Chặt phá rừng, mở rộng diện tích canh tác gây suy thoái nguồn nước ngầm, làm mất dần và có nguy cơ tuyệt chủng nhiều loài động vật hoang dã.
- Xu thế tiêu chuẩn hoá, chuyên canh hoá tập trung vào một số giống cây, con mới đồng nhất về di truyền trong nông nghiệp dẫn đến sự thay thế dần và biến mất những giống loài truyền thống – cơ sở di truyền để cải tạo giống là nguồn gen dự trữ quan trọng trong tương lai.
1. Ô nhiễm môi trường từ phân bón hoá học:
Nitrat (N03-) là yếu cần thiết cho sinh trưởng và phát triển của nhiều loài cây trồng, đồng thời nó cũng được xem là mối đe doạ cho sức khoẻ con người và tính trong sạch của các nguồn nước tự nhiên. Tính trung bình, khi bón phân đạm vào đất thực vật chỉ hấp thụ được khoảng 50 - 60%, số còn lại đi vào các nguồn khác.
Mặc dù thực vật rất cần nitơ nhưng ion NO3- gần như không bị đất hấp thụ và luôn tồn tại ở dạng linh động dễ bị rửa trôi vào các nguồn nước. Một nghiên cứu vào năm 1972 ở Anh cho thấy có hiện tượng phú dưỡng ở cả 18 con sông nghiên cứu. Nhiều kết quả nghiên cứu bằng phương pháp nguyên tử đánh dấu đã khẳng định N-NH4 tronh nước có nguồn gốc từ nitơ bón vào đất. Như vậy nguồn gốc N03- trong nước là do phân bón vô cơ và hữu cơ đậc biệt khi người nông dân bón không đúng lúc, bón thúc vào thời kỳ cây không cần và bón không đều.
Ô nhiễm nỉtat không phải là vấn đề mới, cách đây hàng trăm năm người ta đã ghi nhận nồng độ coa của nó trong các giếng nước ăn nhưng phát hiện mới nhất là NO3- liên quan tới sức khoẻ cộng đồng thể hiện qua 2 loại bệnh:
- Methaemoglobinaemia: Trè xanh ở trẻ sơ sinh.
- Ung thư dạ dày ở người lớn.
Thực ra NO3- không độc, nhưng khi nó bị khử thành nỉtit(NO2-) trong cơ thể nó trở nên rất độc. NO3- trong dạ dày bị các vi khuẩn khử thành NO2- và sâm nhập vào máu, nó phản ứng với haemoblobin chứa Fe2+ ( đây là phân tử có chức năng vận chuyển O2 đi khắp cơ thể) tạo ra methaemoglobinaemia chứa Fe3+ có rất ít năng lực vận chuyển O2 và trẻ sơ sinh rất mẫn cảm với bệnh này do trong dạ dày của chungs không đủ axit để ngăn cản các vi khuẩn biến đổi NO3- thành NO2-.
Ung thư dạ dày cũng là bệnh liên quan tới hàm lượng NO3trong nước và do quá trình biến đổi từ NO3- thành NO2 phản ứng với một loại amin thứ sinh xuất hiện khi phân huỷ mỡ hay prôtêin ở bên trong dạ dày tạo ra hợp chất N – nitroso( chất gây ung thư). Vì tính chất nguy hiểm của NO3 đối với sức khoẻ cộng đồng nên châu Âu qui định mức chuẩn cho nước uống là 50g NO3 -/m3, giá trị tối ưu không quá 25g NO3/m3.
2. Ô nhiễm môi trường do HCBVTV:
Việc sử dụng HCBVTV trong nông nghiệp đã làm nảy sinh nhiều vấn đề môi trường. Định hướng của thuốc trừ sâu là diệt sâu hại, nhưng diễn biến thực tế của lại ảnh hưởng độc tới đất, nước, không khí, đại dương và các sản phẩm nông nghiệp, động vật sức khoẻ con người đặc biệt những dư lượng của những chất do tính độc cao như chlordane, DDT, picloram, zimazine...
Một đặc tính quan trọng của HCBVTV trong hệ sinh thái là tính khuyếch đại sinh học. Từ nồng độ sử dụng nhỏ, sau khi vào hệ sinh thái thông qua chuỗi lưới thức ăn chất độc được tích luỹ với nồng độ cao dần qua các bậc dinh dưỡng. Hầu hết các loại HCBVTV đều độc đối với người và động vật máu nóng, tuy nhiên mức độ gây độc của mỗi loại thuốc có khác nhau, có loại thuốc gây độc cấp tính, có loại thuố có tính tích luỹ lâu trong cơ thể sống, bền vững trong môi trường. Các kết quả nghiên cứu cho thấy có đến 90% HCBVTV không đạt mục đích mà gây nhiễm độc đất, nước, nông sản. Việc sử dụng lặp lại nhiều lần cùng một loại thuốc ở nhiều nước đang phát triển do được bao cấp, trợ giá dẫn đến hiện tượng quen thuốc buộc phải sử dụng các chủng loại HCBVTV khác có độc tính cao hơn và càng xúc tiến rủi ro về môi trường cũng như nghề nghiệp.
Theo kết quả báo cáo của viện bảo vệ thực vật năm 1999, hiện nay trên thị trường Việt Nam có 270 loại thuốc diệt côn trùng, 216 loại thuốc diệt nấm, 160 loại thuốc diệt cỏ, 12 loại thuốc diệt gậm nhấm và 26 loại thuốc kích thích sinh trưởng. Điều đáng là 60% tổng số hoá chất trên được sử dụng phun cho rau quả mà phần lớn nông dân lại không hiểu đầy đủ về tác dụng, chức năng của mỗi loại thuốc cho nên họ thường phun sai chủng loại, liều lượng cũng như thời gian cho phép.
Ví dụ trung bình từ 1 đến 3 ngày họ lại phun thuốc kích thích tăng trưởng và thuốc trừ sâu cho dưa chuột và đậu. Năm 1990 lượng HCBVTV được sử dụng là 10.300 tấn đến năm 1998 đã tăng lên 33.000 tấn. Rất nhiều vụ ngộ độc do HCBVTV gây ra ở các quy mô và mức độ khác nhau. Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do HCBVTV nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đã chú ý đến việc quản lý sâu hại tổng hợp( IPhần mềm ) để kìm dữ sâu bệnh ở mức chấp nhận được. IPhần mềm bao gồm việc sử dụng thuốc trừ sâu một cách có chọn lọc và dựa trên việc áp dụng các biện pháp sinh học, tính đề kháng di truyền và thực tiễn quản lý thích hợp./.
ô nhiễm đất
Đất được hình thành từ đá qua quá trình phong hoá. Khi sự sống trên trái đất chưa xuất hiện, thì vòng đại tuần hoàn địa chất là quá trình phong hoá đá đã dần dần hình thành phần không sống của hệ sinh thái đất (các chất khoáng, các dạng nước, các chất khí) gọi là mẫu chất tạo tiền đề cho sinh vật phát triển. Kể từ khi có những sinh vật đơn bào đầu tiên xuất hiện trên mẫu chất là lúc xuất hiện một vòng tuần hoàn mới – vòng tiểu tuần hoàn sinh học.
Như vậy tự bản thân môi trường đất đã có cấu trúc, chức năng như là một hệ sinh thái, một mẫu hình của hệ thống mở. Tuy nhiên sự tự điều chỉnh của hệ sinh thái đất có một giới hạn nhất định. Nếu sự thay đổi vượt quá giới hạn này, hệ sinh thái đất sẽ mất khả năng tự điều chỉnh và hậu quả là đất bị ô nhiễm và thoái hoá. Sự ô nhiễm môi trường đất là hậu quả của các hoạt động của con người, làm thay đổi các nhân tố sinh thái quá ngưỡng của các quần xã sống trong đất. Muốn kiểm soát được ô nhiễm môi trường đất cần biết giới hạn sinh thái của các quần xã sống trong đất đối với từng nhân tố sinh thái. Xử lý ô nhiễm tức là điều chỉnh và đưa các nhân tố sinh thái trở về giới hạn sinh thái của quần xã sinh vật đất. Đây là nguyên lý sinh thái cơ bản được vận dụng vào việc sử dụng hợp lý tài nguyên đất và bảo vệ môi trường. Bản chất của sự xác lập cân bằng là quá trình tự điều chỉnh năng lượng và vật chất giữa 3 loại sinh vật: sinh vật sản xuất, sinh vật tiêu thụ và sinh vật phân huỷ. Thông thường tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái đất cao hơn so với hệ sinh thái nước, không khí nên khả năng tự lập lại cân bằng của nó cũng cao hơn.
I. Khái niệm:
Sự ô nhiễm môi trường đất là do hậu quả các hoạt động cuả con người làm thay đổi các nhân tố sinh thái quá ngưỡng sinh thái của những quần xã sinh vật sống trong đất.
II. Nguyên nhân:
Bình thường hệ sinh thái đất luôn tồn tại ở trạng thái cân bằng. Khi có mặt một số chất mà hàm lượng của chúng vựot quá ngưỡng cho phép thì hệ sinh thái đất sẽ mất cân bằng, môi trường đất bị ô nhiễm và thoái hoá. Có nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm đất trong đó có một số nguyên nhân chính gây ô nhiễm đất ở Việt Nam là:
1. áp lực tăng dân số đòi hỏi nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng tăng và phải đẩy mạnh khai thác độ phì nhiêu của đất bằng cách:
- Tăng cường sử dụng hoá chất như phân vô cơ, thuốc trừ sâu diệt cỏ…vv.
- Sử dụng chất kích thích sinh trưởng làm giảm thất thoát và tạo thuận lợi cho thu hoạch.
- Mở rộng các hệ thống tưới tiêu.
2. Việc đẩy mạnh công nghiệp hoá và đô thị hoá không có kế hoạch quản lý môi trường đã làm ô nhiễm nặng nề các vùng ven đô thị và khu công nghiệp. Các tác nhân chính gây ô nhiễm đất ở đây là không khí ô nhiễm, nước thải, chất thải rắn của các cơ sở trên.
3. Do hậu quả chiến tranh (thuốc diệt cỏ do Mỹ sử dụng ở miền Nam Việt Nam) đã gây ảnh hưởng lâu dài đến con người, tự nhiên trên những vùng đất rộng lớn.
Như vậy nguyên nhân chính gây ô nhiễm đất ở Việt Nam là sử dụng không hợp lý phân bón, hoá chất bảo vệ thực vật, chất kích sinh trưởng, chất thải không qua xử lý của các khu dân cư, đô thị và các khu công nghiệp, chất độc trong chiến tranh…vv, gây ô nhiễm khá nghiêm trọng ở một số nơi. Tuy nhiên về quy mô vùng bị ô nhiễm không lớn, chỉ xẩy ra ở ven một số thành phố lớn, khu công nghiệp làng nghề truyền thống không có công nghệ xử lý chất thải độc hại và những vùng chuyên canh, thâm canh sử dụng phân bón, hoá chất bảo vệ thực vật không hơp lý, không có sự quản lý chặt chẽ.
II. Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường đất:
1. Tác nhân hoá học:
Loại ô nhiễm này được gây ra do một số nguồn: Chất thải công nghiệp, giao thông, chất thải sinh hoạt, đặc biệt là việc sử dụng phân hoá học, hoá chất bảo vệ thực vật, các chất kích thích sinh trưởng…làm cho đất bị ô nhiễm kim loại nặng, Nitơrát…ở Việt Nam ô nhiễm đất bởi kim koại nặng nhìn chung không phổ biến tuy nhiên nhiều trường hợp cục bộ gần khu công nghiệp, đặc biệt ở các làng nghề tình trạng ô nhiễm kim loại nặng đang diễn ra khá trầm trọng.
Bảng 1: Hàm lượng Pb trong bùn và trong đất tại xã Chỉ Đạo, Mỹ Văn, Hưng Yên. ( Nguồn: Lê Văn Khoa-2002).
stt mẫu nghiên cứu hàm kượng chì (ppm)
1
2
3
4 Mẫu bùn trong ao chứa nước thải phá ắc quy
Mẫu đất lúa gần nơi nấu chì
Mẫu đất giữa cánh đồng
Mẫu đất gần làng 2166.0
387.6
125.4
2911.4
Hàm lượng chì lớn hơn 100 pPhần mềm được đánh giá là đất bị ô nhiễm.
2. Ô nhiễm đất do tác nhân vật lý:
a. Ô nhiễm nhiệt:
Khi nhiệt độ trong đất tăng sẽ gây ra những ảnh hưởng lớn đến khu hệ vi sinh vật đất phân giải chất hữu cơ và nhiều trường hợp làm đất chai cứng, mất dinh dưỡng. Nhiệt độ trong đất tăng, dẫn đến hàm lượng mất O2 giảm gây mất cân bằng và quá trình phân huỷ các chất hữu cơ sẽ diễn ra theo kiểu hô hấp kỵ khí, tạo ra nhiều sản phẩm trung gian có mùi khó chịu và độc cho cây trồng, động vật như: NH3, H2S, CH4 và Alđêhyt.... Nguồn gây ô nhiễm nhiệt là do sự thải bỏ nước làm mát các thiết bị của các nhà máy. Nước này có thể làm nhiệt độ của đất tăng từ 5- 150C gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đất. Ngoài ra nguồn ô nhiễm nhiệt còn do những đám cháy rừng, phát nương đốt rẫy trong du canh làm nhiệt độ đất tăng đột ngột từ 15- 300C huỷ diệt nhiều sinh vật có ích trong đất, đất trở nên chai cứng.
b. Ô nhiễm do các chất phóng xạ:
Do phế thải của những trung tâm khai thác các chất phóng xạ, trung tâm nghiên cứu nguyên tử, nhà máy điện nguyên tử, các bệnh viện và những vụ thử vũ khí hạt nhân. Các chất phóng xạ thâm nhập vào đất, theo chu trình dinh dưỡng tới cây trồng, động vật và con người. Sau mỗi vụ thử vũ khí hạt nhân chất phóng xạ trong đất tăng lên10 lần và khi đi vào sinh vật nó cũng có hiện tượng khuyếch đại sinh học. Các chất phóng xạ (Sn90,I131Cs137) xâm nhập vào cơ thể con người làm thay đổi cấu trúc tế bào, gây ra các bệnh di truyền, bệnh về máu, ung thư…
3. Ô nhiễm đất do tác nhân sinh học:
Do các phương pháp đổ bỏ chất thải mất vệ sinh, sử dụng phân bắc tươi, bùn ao tươi, bùn kênh dẫn chất thải sinh hoạt bón trực tiếp vào đất. Hiện nay các vùng nông thôn miền Bắc Việt Nam tập quán sử dụng phân bắc và phân chuồng tươi trong canh tác vẫn còn phổ biến. Chỉ tính riêng trong nội thành Hà Nội, hàng năm lượng phân bắc thải ra khoảng 550.000 tấn và chỉ khoảng 1/3 số đó được xử lý. ở các vùng nông thôn phía Nam đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long, phân tươi được coi là nguồn thức ăn cho cá. Tập quán sử dụng phân tươi, nước thải bón, tưới trực tiếp cho đất đã gây ô nhiễm sinh học nghiêm trọng cho môi trường đất, không khí, nước, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.
Bảng 2: Số lượng các loại vi trùng và trứng giun
stt đối tượng nghiên cứu vi trùng E-Coli trong 100 gam đất số trứng giun trong 50g phân hay trong 1000ml nước
giun đũa giun tóc
1
2
3
4
5
6
7
8 Phân bắc tươi trộn tro bếp
Phân bắc đã ủ 2 tháng
Đất vừa tưới phân bắc
Đất tưới phân bắc sau 20 ngày
Đất vừa tưới phân tươi
Đất chỉ dùng phân hoá học
Nước mương khu trồng rau tưới phân bắc
Nước giếng khu trồng rau tưới phân bắc 107
105
105
105
105
102
450
20 31
12
22
13
5
3
3
7 16
7
10
5
1
( Nguồn: Trần Khắc Thi, 1996)
IV. Biện pháp kiểm soát ô nhiễm đất.
• Làm sạch cơ bản:
Mục đích chính là phòng ngừa sự nhiễm trùng đất có nguồn gốc từ phân, nước thải sinh hoạt, nước thải bệnh viện.... Các ngồn này phải được sử lý trước khi thải ra môi trường để tránh làm nhiễm bẩn nước ngầm hay nước bề mặt.
*Khử chất thải rắn: rác gia đình, phế liệu xây dựng, phế liệu công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp... đây là môi trường thuận lợi cho ruồi, muỗi, các loài gặm nhấm phát triển. Ngoài ra chúng còn góp phần làm ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí... làm tổn hại đến chất lượng môi trường xung quanh. Các thiết bị xử lý thường dùng một hay nhiều những kỹ thuật như: lựa chọn, đốt cháy, trộn phân, phun, nghiền, làm đặc.... ở các nước công nghiệp phát triển, nhiều khu vực đất đai bị ô nhiễm nặng, người ta sử dụng các hệ thống cơ hoá lý nhằm ngăn ngừa sự chuyển động của các chất gây ô nhiễm do rửa trôi, hoạt động mao quản và di chuyển khí.
Các hệ thống nhằm ngăn chặn sự chuyển động của các chất gây ô nhiễm do rửa trôi, hoạt động mao quản và di chuyển khí:
Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
Lĩnh vực kinh tế:
+ Giảm đều mức tiêu phí năng lượng và những tài nguyên khác thông qua các công nghệ mới và qua thay đổi lối sống.
+ Thay đổi các hình thức tiêu thụ ảnh hưởng đến đa dạng sinh học của các nước khác.
+ Giảm hàng rào nhập khẩu hay chính sách bảo hộ mậu dịch làm hạn chế thị trường cho các sản phẩm của những nước nghèo.
+ Sử dụng tài nguyên nhân văn, kỹ thuật và tài chính để phát triển công nghệ sạch và sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên.
+ Làm cho mọi người tiếp cận tài nguyên một cách bình đẳng.
+ Giảm chênh lệch về thu nhập và tiếp cận y tế.
+ Chuyển tiền từ chi phí quân sự và an ninh cho những yêu cầu phát triển.
+ Dùng tài nguyên cho việc cải thiện mức sống thường xuyên.
+ Loại bỏ cùng kiệt nàn tuyệt đối.
+ Cải thiện việc tiếp cận ruộng đất, giáo dục và các dịch vụ xã hội.
+ Thiết lập một ngành công nghiệp có hiệu suất cao để tạo công ăn việc làm và sản xuất hàng hoá cho thương mại và tiêu thụ.
Lĩnh vực nhân văn:
+ Ổn định dân số.
+ Giảm di cư đến các thành phố qua chương trình phát triển nông thôn,
+ Xây dựng những biện pháp mang tính chất chính sách và kĩ thuật để giảm nhẹ hậu quả môi trường cuả đô thị hoá.
+ Nâng cao tỷ lệ biết chữ.
+ Người dân tiếp cận dễ dàng hơn với dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu.
+ Cải thiện phúc lợi xã hội, bảo vệ tính đa dạng văn hoá và đầu tư vào vốn con người.
+ Đầu tư vào sức khoẻ và giáo dục của phụ nữ.
+ Khuyến khích sự tham gia vào những quá trình làm quyết định.
Lĩnh vực môi trường:
+ Sử dụng có hiệu quả hơn đất canh tác và cung cấp nước.
+ Cải thiện canh tác nông nghiệp và kĩ thuật để nâng cao sản lượng.
Clorofluorocacbon ( CFC): CFC là những hoá chất do con người tổng hợp để sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp và từ đó xâm nhập vào khí quyển. CFC 11 hay CFCl3 hay CFCl2 hay CF2Cl2 (còn gọi là freon 12 hay F12) là những chất thông dụng của CFC. Một lượng nhỏ CFC khác là CHC1F2 (hay F22), CCl4 và CF4 cũng xâm nhập vào khí quyển. Cả hai hợp chất CFC 11 và CFC 12 hay freon đều là những hợp chất có ý nghĩa kinh tế cao, việc sản xuất và sử dụng chúng đã tăng lên rất nhanh trong hai thập kỷ vừa qua. Chúng tồn tại cả ở dạng sol khí và không sol khí. Dạng sol khí thường làm tổn hại tầng ôzôn, do đó là sự báo động về môi trường, những dạng không sol khí thì vẫn tiếp tục sản xuất và ngày càng tăng về số lượng. CFC có tính ổn định cao và không bị phân huỷ. Khi CFC đạt tới thượng tầng khí quyển chúng sẽ được các tia cực tím phân huỷ.
Mêtan (CH4): Mêtan là một loại khí gây hiệu ứng nhà kính. Nó được sinh ra từ các quá trình sinh học, như sự men hoá đường ruột của động vật có guốc, cừu và những động vật khác, sự phân giải kỵ khí ở đất ngập nước, ruộng lúa, cháy rừng và đốt nhiên liệu hoá thạch. CH4 thúc đẩy sự ôxy hoá hơi nước ở tầng bình lưu. Sự gia tăng hơi nước gây hiệu ứng nhà kính mạnh hơn nhiều so với hiệu ứng trực tiếp của CH4. Hiện nay hàng năm khí quyển thu nhận khoảng từ 400 đến 765x1012g CH4
Một số chất khác:
- Các hợp chất flo.
- Các chất tổng hợp (ête, benzen).
- Các chất lơ lửng (bụi rắn, bụi lỏng, bụi vi sinh vật), nitrat, sunfat, các phân tử cacbon, sol khí, muội, khói, sương mù, phấn hoa.
- Các loại bụi nặng, bụi đất, đá, bụi kim loại như đồng, chì, sắt, kẽm, niken, thiếc, cađimi...
- Khí quang hoá như ozôn, FAN, FB2N, NOX, anđehyt, etylen...
- Chất thải phóng xạ
Tiến hành các biện pháp thiết thực để bảo vệ tài nguyên khí hậu như:
Ngăn chặn việc khai thác bừa bãi các loại rừng đầu nguồn, rừng tự nhiên và rừng ngập mặn. Rừng là giải pháp hữu hiệu nhất nhằm cải thiện chế độ mưa, chế độ ẩm và nhiệt độ của địa phương, đem lại điều kiện sinh thái thuận lợi cho sản xuất và con người.
Trồng mới các loại rừng, xây dựng cơ cấu rừng hợp lý cho từng vùng, tạo các kiểu rừng có kết cấu nhiều tầng để khai thác tối đa điều kiện không gian và nhanh chóng phủ đất, che bóng cho mặt đất, chống xói mòn, mức che phủ phải đạt trên 50% diện tích đất.
Củng cố và xây dựng các hồ chứa nước góp phần hạn chế dòng chảy, phân phối, điều hoà nước và làm tăng độ ẩm đất. Ðó là giải pháp điều tiết khí hậu rất có hiệu quả.
Quy hoạch hợp lý việc phát triển giao thông vận tải, phát triển công nghiệp, hạn chế tối đa việc giải phóng bừa bãi các chất thải vào môi trường, đặc biệt là các chất khí thải gây hiệu ứng nhà kính từ việc đốt các nhiên liệu hoá thạch như xăng dầu, than đá...
Tổ chức phòng chống thiên tai có hiệu quả, xây dựng và củng cố hệ thống dự báo về lụt, bão, cháy rừng..., tiến hành các biện pháp phòng chống kịp thời, chu đáo sẽ hạn chế được rất nhiều ảnh hưởng xấu của thiên tai.
II.8. Tài nguyên năng lượng
II.8.1. Khái niệm chung
Năng lượng là một dạng tài nguyên vật chất, xuất phát từ hai nguồn chủ yếu là năng lượng mặt trời và năng lượng lòng đất. Năng lượng là nền tảng cho nền văn minh và sự phát triển của xã hội. Con người cần năng lượng cho sự tồn tại của bản thân mình và phần quan trọng là để sản sinh ra công cho mọi hoạt động sản xuất và dịch vụ.
Dạng năng lượng thiên nhiên đầu tiên được con người sử dụng là năng lượng mặt trời dùng để soi sáng, sưởi ấm, phơi khô lương thực, thực phẩm, đồ dùng. Năng lượng dầu mỏ thay thế dần vị trí của than đá trong thế kỷ XX và từng bước chia sẽ vai trò của mình với năng lượng hạt nhân.
Các dạng năng lượng mới ít ô nhiễm như năng lượng mặt trời, nước, gió, thủy triều, năng lượng vi sinh vật thu nhận được với những phương tiện và công nghệ tiên tiến cũng đang mở rộng phạm vi hoạt động của mình.
II.8.2. Năng lượng mặt trời
Tiềm năng năng lượng mặt trời ở Việt Nam: Tiềm năng năng lượng mặt trời được phản ánh qua số giờ nắng. Trung bình năm ở nước ta có khoảng 1400 - 3000 giờ nắng. Ở phần trên đã nêu chi tiết phân bố số giờ nắng trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Theo bản đồ khí hậu về phân bố số giờ nắng có thể thấy sự phân bố của tiềm năng năng lượng mặt trời theo thứ tự giảm dần như sau:
- Lớn nhất là vùng đồng bằng duyên hải cực Nam Trung Bộ và một phần lãnh thổ phía Đông của Nam Bộ.
- Đại bộ phận khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ
- Phần lớn đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, vùng núi thấp và vừa ở sườn phía Tây Hoàng Liên Sơn.
- Ít nhất là sườn phía Đông Hoàng Liên Sơn và phần lớn khu vực Đông Bắc.
Việc sử dụng năng lượng ở nước ta được phân ra theo các khu vực như sau:
Dân dụng 67%
Công nghiệp 22%
Giao thông 7%
Nông nghiệp và các khu vực khác 4%
Trước đây, người ta sử dụng năng lượng mặt trời chủ yếu trong việc phơi, sấy lúa, gạo và các sản phẩm nông nghiệp cần bảo quản khô, hay trong công nghiệp chế biến thủy hải sản dùng để hong khô cá, tôm…hay lợi dụng để làm nước mắm, nước tương…Ngày nay, năng lượng mặt trời được sử dụng trong một số lĩnh vực cộng nghệ cao như: tấm pin năng lượng mặt trời, điện năng lượng mặt trời, các thiết bị sử dụng nhờ năng lượng mặt trời…
II.8.3. Năng lượng gió
Tiềm năng năng lượng gió phụ thuộc vào tốc độ gió trung bình V và hệ số năng lượng mẫu k. Do sự phân hóa của tiềm năng năng lượng gió phụ thuộc chủ yếu vào sự phân hóa của tốc độ gió trung bình, nên nói chung sự phân bố của năng lượng gió tương tự như sự phân bố của tốc độ gió trung bình.
Phân bố tổng năng lượng gió trung bình năm trên lãnh thổ Việt Nam là: Tiềm năng năng lượng gió tăng lên từ đất liến ra ngoài khơi; và có khuynh hướng giảm khi càng gần xích đạo. Tiềm năng lớn nhất tại các đảo phía Đông lãnh thổ, tổng năng lượng năm W > 4000kwh/m2, trên các đảo xa bờ. Tại các đảo phía Nam giảm dần chỉ từ 400 - 900kwh/m2.
Ở vùng ven biển có tiềm năng đáng kể. Trên bờ biển thoáng của Bắc Bộ và Trung Bộ, tiềm năng W từ 800 - 1000kwh/m2, ven biển phía Đông Nam Bộ - từ 600 - 800kwh/m2 và giảm đi ở ven biển phía Nam và phía Tây.
Ở đồng bằng Bắc Bộ, theo chiều từ trung du ra biển, tiềm năng W tăng từ 250 đến 800 - 1000kwh/m2. Trên dải đồng bằng hẹp Trung Bộ, ở những nơi mà dãy Trường Sơn hạ xuống thấp, tiềm năng khá phong phú, khoảng 700 - 800kwh/m2, có nơi tới 1000kwh/m2. Những khu vực bị ảnh hưởng hưởng bởi sự che chắn của khối núi đồ sộ Trường Sơn như phía Tây Quảng Nam - Quảng Ngãi, chỉ vài ba trăm kwh/m2.
Ở đồng bằng Nam Bộ, phân bố tiềm năng năng lượng gió đồng đều hơn, khoảng 300 - 450kwh/m2 và tăng lên đến 500 - 600kwh/m2 khi ra gần tới biển. Ở trung du và núi thấp W nhỏ có giá trị dưới 200kwh/m2. Vùng núi Đông Bắc Bắc Bộ tiềm năng lớn hơn vùng núi Tây Bắc và vùng núi phía Bắc. Ở Tây Nguyên, mặc dầu gió không mạnh, nhưng do hệ số năng lượng mẫu k lớn nên tiềm năng tương đối khá, trên cao nguyên thoáng, W có thể đạt 600kwh/m2.
Phân bố năng lượng gió trung bình năm là một thông tin ban đầu quan trọng đối với mục đích sử dụng và cách khai thác nguồn tiềm năng này với điều kiện cụ thể của từng địa phương.
Kế hoạch phát triển nguồn điện đến năm 2010 của Tổng Công ty điện lực Việt Nam có nêu: Chú trọng phát triển thủy điện nhỏ, điện mặt trời, điện gió ở những vùng xa xôi, hẻo lánh.
Phát triển, khai thác sử dụng năng lượng tái tạo, trong đó có năng lượng gió được đề cập đến trong chính sách phát triển nông thôn, miền núi phục vụ xóa đói, giảm nghèo.
II.8.4. Năng lượng thủy triều
Nói chung, dao động mực nước triều ở biển Việt Nam không thuộc loại lớn, không phải là nơi công suất nhiều triển vọng để xây dựng các nhà máy điện thủy triều lớn như các địa điểm khác trên thế giới. Tuy nhiên, vùng biển nước ta có một hệ thống vùng vịnh ven biển có thể tận dụng khai thác năng lượng thủy triều.
II.8.5. Các giải pháp về năng lượng của loài người
- Việc đầu tư triển khai công nghệ chống ô nhiễm môi trường trong các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than, dầu có tác động giảm thiểu các chất thải ra môi trường
Việc tăng giá năng lượng như giá điện, giá xăng dầu, than cũng có thể là một biện pháp để giảm sự lãng phí năng lượng, khuyến khích đầu tư cho các công nghệ sạch, các dạng năng lượng khác.
- Tăng cường đầu tư nghiên cứu phát triển các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái sinh theo hướng hạ giá thành sản xuất sao cho chúng có thể cạnh tranh các nguồn năng lượng truyền thống.
- Nghiên cứu các qui trình sản xuất, thiết bị sản xuất để tiết kiệm năng lượng. Nghiên cứu sử dụng năng lượng sạch trong một số lĩnh vực dễ gây ra tác động xấu đến môi trường như giao thông, sinh hoạt,...
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: