Download miễn phí Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam
Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực xây dựng và ban hành các văn bản pháp
luật. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường hợp tác quốc tế trong việc đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực trong các cơ quan xây dựng pháp luật để có đội ngũ cán bộ có am hiểu
sâu rộng, có trình độ chuyên môn cao về luật pháp quốc tế để đáp ứng được những yêu
cầu ngày càng cao trong việc xây dựng và ban hành các văn bản luật theo yêu cầu của
tiến trình hội nhập
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2013-11-10-mot_so_giai_phap_co_ban_nham_phat_trien_thi_truong.K1DUPb8fRv.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-44892/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
ảidạy cái mà các cơ sở có” giúp GD&ĐT mang
tính thực tiễn hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu
của xã hội trong từng ngành cụ thể. Tuy vậy,
xét trên dài hạn và trên tổng thể nền kinh tế,
nếu không có sự định hướng của Nhà nước,
nguyên tắc thị trường này sẽ khuyến khích
các cơ sở GD&ĐT chạy theo nhu cầu học tập
thời thượng của các “khách hàng”. Người
học đổ xô vào những ngành nghề đang được
coi là hấp dẫn, dễ kiếm việc. Hậu quả là giáo
dục toàn diện bị coi nhẹ, những ngành nghề
quan trọng chưa mang lại hiệu quả trong thời
gian ngắn bị bỏ rơi, cơ cấu GD&ĐT và ngành
nghề mất cân đối trên phạm vi vĩ mô.
Thứ ba, các cơ sở GD&ĐT muốn chủ động
trong các hoạt động và hoạch định chiến lược
phát triển lâu dài phải duy trì một số lượng
nhất định giảng viên, nhà khoa học trong
biên chế. Tuy nhiên, nếu số biên chế này quá
lớn hay có sự phân biệt giữa người trong
biên chế và người ngoài biên chế về tiền
lương, chính sách đãi ngộ... thì sẽ làm thị
trường hoạt động không hiệu quả.
- Phương hướng phát triển thị trường
GD&ĐT.
Sự phát triển thị trường GD&ĐT là tất
yếu và đem lại lợi ích to lớn. Do đó, cần
chủ động tạo lập những điều kiện cho sự
hình thành, phát triển của thị trường
GD&ĐT; hướng hoạt động GD&ĐT ngày
càng hiệu quả, đáp ứng nhu cầu phát triển
của thị trường khoa học - công nghệ.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập,
phát triển thị trường GD&ĐT phải gắn với
đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong GD&ĐT; mở
cửa thị trường GD&ĐT.
Nhà nước cần có sự can thiệp hợp lí
nhằm hạn chế những mặt trái của thị trường
GD&ĐT; đồng thời hỗ trợ tích cực những cơ
sở GD&ĐT hoạt động có hiệu quả.
- Những giải pháp cụ thể.
Một là, sớm hoàn chỉnh khung pháp lí để tạo
lập thị trường GD&ĐT.
Xây dựng một khung pháp lí hoàn chỉnh
là một việc rất quan trọng nhằm tạo nền tảng
cho mọi hoạt động của thị trường. Khung
pháp lí hướng dẫn và điều chỉnh các chủ thể
tham gia vào thị trường, quy định phạm vi
hoạt động của thị trường. Việc xây dựng một
khung pháp lí phù hợp và đúng đắn cần
được triển khai từ các cấp lãnh đạo, có sự
tham gia đóng góp của các cơ sở tham gia
hoạt động GD&ĐT.
Hai là, tăng quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm cho các cơ sở GD&ĐT.
Trong cơ chế thị trường, những người
cung ứng hàng hoá, dịch vụ phải là những
chủ thể độc lập. Họ phải trả lời các câu hỏi:
sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? cho ai?
Do đó, muốn nâng cao chất lượng GD&ĐT,
cần tăng quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm cho các cơ sở GD&ĐT. Sự can thiệp
của Nhà nước chỉ là để khắc phục các khuyết
tật của thị trường. Nhà nước can thiệp bằng
luật pháp, bằng việc kiểm soát các quy trình
đào tạo, chương trình, giáo trình…
Ba là, khuyến khích phát triển và hỗ trợ các cơ
sở GD&ĐT tư nhân và nước ngoài.
Mở rộng và khuyến khích sự tham gia
của các doanh nghiệp, khu vực tư nhân và
các tổ chức xã hội vào phát triển các loại hình
GD&ĐT. Có chính sách cho thuê hay mượn
đất xây dựng trường học. Đồng thời, thực
Phạm Văn Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 35-48 39
hiện chuyển một số cơ sở GD&ĐT của nhà
nước sang hình thức bán công hay khoán,
cho thuê cơ sở vật chất. Việc hỗ trợ của nhà
nước đối với các cơ sở GD&ĐT tư nhân, một
mặt có tác dụng tạo ra nhiều đối tác cạnh
tranh với các cơ sở của Nhà nước, qua đó gây
áp lực với các cơ sở nhà nước, buộc các cơ sở
này phải nâng cao chất lượng và hiệu quả
GD&ĐT. Mặt khác, tạo điều kiện cho quản lý
nhà nước đối với các hoạt động GD&ĐT tư
nhân theo đúng đường lối, chính sách, giảm
thiểu các thất bại của thị trường, từ đó đảm
bảo lợi ích của mỗi người dân, cũng như của
toàn xã hội.
Bốn là, thành lập tổ chức kiểm định chất
lượng GD&ĐT.
Khác với các hàng hoá thông thường, giá
trị sử dụng của hàng hoá GD&ĐT chỉ được
kiểm nghiệm sau hành vi mua bán. Đặc điểm
này làm cho tính chất thông tin không đối
xứng trên thị trường GD&ĐT có thể mang
đến những thiệt hại to lớn cho người mua
hàng hoá GD&ĐT. Đối với những quốc gia
có thị trường chưa hoàn thiện, cung còn quá
ít so với cầu, các công cụ điều tiết của Chính
phủ còn chưa đủ mạnh như ở Việt Nam, vấn
đề này càng trở nên rõ nét. Những thiệt hại
về phía người tiêu dùng thể hiện ở những
hiện tượng như: nhiều cơ sở GD&ĐT thiếu
trách nhiệm với khách hàng của mình về chất
lượng hàng hoá cung cấp cho họ, không đảm
bảo đúng như quảng cáo ban đầu, làm cho
người mua hàng hoá không sử dụng được
trong hoạt động thực tiễn... Vì vậy, để bảo vệ
khách hàng, Nhà nước cần sớm thành lập tổ
chức kiểm định chất lượng nhằm giúp người
học phân biệt được chất lượng của các cơ sở
GD&ĐT, hạn chế thiệt hại do thiếu thông tin
về thị trường. Sự hoạt động của tổ chức kiểm
định chất lượng cũng cung cấp thông tin
giúp nhà nước đưa ra các giải pháp đúng đắn
về hỗ trợ hay giải thể những cơ sở đào tạo
hiện hành.
2. Chuyển đổi các cơ sở nghiên cứu khoa
học - công nghệ sang hoạt động theo mô
hình doanh nghiệp
Trong thời kỳ trước đổi mới, các cơ quan
nghiên cứu khoa học - công nghệ của nước ta
đều do Nhà nước thành lập. Cơ sở vật chất
kỹ thuật ban đầu của phần lớn các viện
Nghiên cứu và triển khai khoa học - công
nghệ (R&D) thường cùng kiệt nàn, lạc hậu. Nhà
nước giao nhiệm vụ và cấp kinh phí cho viện
R&D hoạt động theo kế hoạch.
Nội dung đề tài R&D thường có nguồn
gốc từ quy hoạch phát triển ngành kinh tế,
nhu cầu hợp tác quốc tế, nhu cầu học thuật,
sở trường chuyên môn của người nghiên
cứu, ý tưởng của người lãnh đạo, nhu cầu tồn
tại và phát triển viện R&D; những đề tài có
nguồn gốc từ nhu cầu của sản xuất và đời
sống còn chưa đáng kể...
Trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế, các viện
R&D từng bước thích ứng với những điều
kiện của cơ chế thị trường đang hình thành.
Phần lớn các viện R&D đã chuyển dần từ
hoạt động “theo chức năng” sang hoạt động
“theo nhu cầu”; tự điều chỉnh, khắc phục dần
khoảng cách giữa những khả năng thực tế
của mình với những nhu cầu thực tế của sự
phát triển kinh tế - xã hội. Viện R&D đã từng
bước tập trung hoạt động của mình vào
những mục tiêu thiết thực, bao gồm những
mục tiêu trong chức năng và những mục tiêu
ngoài chức năng.
Trên cơ sở đổi mới cơ chế quản lý của
Nhà nước, các viện R&D đã được mở rộng
quyền tự chủ trong hoạt động của mình. Viện
có quyền ký hợp đồng công việc và hợp đồng
lao động; quyền tự chủ về kế hoạch hoạt
động R&D và tự chủ về tài chính; quyền chủ
động hợp tác với các cơ quan khoa học, sản
xuất, kinh doanh; quyền làm dịch vụ tư vấn
khoa học, thiết kế và trực tiếp tham gia sản
xuất kinh doanh; quyền phân phối lợi nhuận...
...