Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Lời nói đầu
Đối với bất kỳ một tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nào thì vốn cũng là yêu cầu, mục tiêu hàng đầu cho sự tồn tại và phát triển. Riêng đối với lĩnh vực ngân hàng thì vốn lại càng đóng một vị trí quan trọng hơn vì nó vừa là phương tiện vừa là đối tượng kinh doanh của ngân hàng.
Theo một nguyên lý phát triển kinh tế nói chung, để có tăng trưởng kinh tế thì phải có vốn. Để góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế của nước ta năm 2004 là 7,7% và định hướng cho năm 2005 là 8,5% thì lại càng cần có nguồn vốn lớn. Tuy thị trường tài chính, tiền tệ của nước ta đã phát triển hơn, nhiều tổ chức trung gian tài chính ra đời, mở rộng hoạt động nhưng nguồn vốn cho tăng trưởng vẫn chủ yếu là từ nguồn của hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, thị trường chứng khoán của nước ta chưa phát triển, điều này càng làm tăng áp lực cho việc cung ứng vốn tín dụng của toàn bộ hệ thống NHTM, đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của nguồn vốn hoạt động trong những năm qua các ngân hàng thương mại đã tập trung làm tốt công tác kế toán huy động vốn nên nguồn vốn của các hệ thống NHTM (trong đó có hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam) không ngừng tăng lên, nhờ đó các NHTM đã đẩy mạnh cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Tuy nhiên, theo nhận định của các nhà kinh tế thì vốn nằm trong dân cư và các tổ chức kinh tế còn nhiều. Trong khi các NHTM vẫn còn thiếu vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn. Hơn nữa, trong những năm gần đây, thị trường tài chính tiền tệ của nước ta tồn tại một thực trạng, đó là, tốc độ tăng trưởng vốn huy động luôn thấp hơn tăng trưởng dư nợ cho vay. Năm 2004 ước tính vốn huy động tăng khoảng 23%, nhưng dư nợ cho vay tăng lên 27%. Đặc biệt, là nguồn vốn huy động từ đồng nội tệ còn tăng chậm, mặc dù các NHTM có nhiều biện pháp đặt ra nhưng cũng không cải thiện được tình hình nhiều. Chính vì vậy, việc tăng cường huy động vốn và tổ chức tốt công tác kế toán huy động vốn đã được đặt ra đối với tất cả các ngân hàng thương mại, trong đó có chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.
Vì những lý do nêu trên nên trong quá trình thực tập tốt nghiệp tại NHNo&PTNT Láng Hạ với sự hướng dẫn của thầy giáo hướng dẫn; của các cô chú, anh chị trong chi nhánh em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động huy động vốn và hoàn thiện kế toán huy động vốn tại NHNo&PTNT Láng Hạ” làm đề tài khoá luận của mình.
Đối tượng và phạm vi của đề tài là những ngiệp vụ phát sinh và quy trình kế toán huy động vốn của của Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ (nơi em thực tập tốt nghiệp) trong ba năm gần đây năm 2002, năm 2003, năm 2004. Nó được thể hiện cụ thể ở nghiệp vụ nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá và tổ chức hạch toán những nghiệp vụ này…
Những đặc điểm của đối tượng, những mặt mạnh, mặt yếu của phạm vi đề tài sẽ được làm rõ bằng những phương pháp truyền thống như duy vật biện chứng, thống kê, tổng hợp phân tích,… Các phương pháp này được vận dụng đan xen với nhau kết hợp những vấn đề về lý luận và con số làm nổi bật lên tính cấp thiết của đề tài.
Kết cấu đề tài gồm có ba phần:
Chương 1: Tổng quan về nguồn vốn huy động và kế toán huy động vốn của ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn và kế toán huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn và hoàn thiện kế toán huy động vốn chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ
Do sự hạn chế về kiến thức và thời gian nên đề tài không tránh khỏi những sai sót, em mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn cũng như tất cả những ai quan tâm đến đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn.
Chương 1:
Tổng quan về nguồn vồn huy động,
kế toán nguồn vốn huy động của ngân hàng
1. Khái niệm, chức năng của ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Đến lượt mình sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Hình thức ngân hàng đầu tiên tồn tại trong lịch sử phát triển được gọi tên là ngân hàng thợ vàng.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hay đúc tiền của các thợ vàng. Sự giao lưu thương mại, quốc tế đã thúc đẩy người làm nghề đổi tiền, đúc tiền thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại, từ đó thu được lợi nhuận từ chênh lệch mua bán. Bên cạnh đó, họ còn thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Nghiệp vụ này làm tăng khả năng đa dạng các loại tiền, quy mô tài sản, từ đó hình thành nên nghiệp vụ thanh toán hộ và cho vay.
Hình thức thứ hai tồn tại trong quá trình phát triển đó ngân hàng thương mại, nó được thành lập do nhiều nhà buôn góp vốn lại với nhau.
Ngân hàng thương mại với chức năng chính là tài trợ ngắn hạn, thanh toán hộ, gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Tức là các khoản tín dụng ngắn hạn của loại hình ngân hàng này dựa trên quá trình luân chuyển hàng hoá với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra từ việc sử dụng tiền vay.
Hình thức ngân hàng thứ ba tồn tại trong quá trình phát triển đó là ngân hàng tiền gửi. Loại hình này ra đời nhằm hạn chế sự phá sản của nhiều ngân hàng thương mại do gặp rủi ro trong hoạt động cho vay.
Đặc trưng của loại hình này là chỉ thực hiện giữ hộ, thanh toán hộ để lấy phí, không thực hiện nghiệp vụ cho vay. Tuỳ từng vùng mà có những tên gọi khác nhau, song giữa chúng có đặc điểm chung nhất là trung gian tài chính thực hiện kinh doanh tiền tệ.
Đến những năm cuối thế kỷ XX, cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế và khoa học công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh về mọi mặt, đa dạng cả về loại hình cũng như các nghiệp vụ trong từng ngân hàng.
Trên đây là sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của NHTM trên thế giới, từ những sự hình thành đó cũng làm nảy sinh nhiều khái niệm về NHTM, tuỳ theo từng thời kỳ, từng nơi nhất định. Đơn cử, đưa ra một khái niệm được xem là chính xác nhất khi định nghĩa về ngân hàng thương mại.
1.1.2. khái niệm
NHTM là một tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay cũng như cung cấp dịch vụ thanh toán.
1.2. Chức năng của NHTM
1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng
Như chúng ta đã biết trong nền kinh tế luôn luôn tồn tại hai đối tượng đối lập nhau, đó là các cá nhân, tổ chức tạm thời thâm hụt tài chính để phục vụ sản xuất, kinh doanh tiêu dùng và các cá nhân, tổ chức đang thặng dư tài chính sau quá trình sản xuất, kinh doanh. Một câu hỏi đặt ra là làm như thế nào để hai chủ thể trong nền kinh tế có thể tiếp xúc với nhau để giải quyết mâu thuẫn đó (do giữa họ có giới hạn vì sự không phù hợp về qui mô, thời gian, không gian…). Đây là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính, trong đó NHTM có vai trò chủ yếu.
Mặt khác, hoạt động chính của NHTM là đi vay để cho vay. Điều đó, chứng tỏ rằng một trong những chức năng quan trọng của NHTM là trung gian tín dụng. Tức là NHTM làm nhiệm vụ huy động những nguồn vốn dư thừa trong nền kinh tế và sau đó cho vay các chủ thể cần vốn trong nền kinh tế. Hay nói cách khác là NHTM đã chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
Qua chức năng trung gian tài chính của mình NHTM đã đem lại lợi ích cho cả ba chủ thể tham gia đó là: người gửi tiền, người vay tiền, và NHTM. Người gửi tiền sẽ nhận lợi tức và các tiện ích đi kèm như thanh toán, cất trữ. Người vay tiền sẽ thoã mãn được nhu cầu bổ sung nguồn vốn của mình cho kinh doanh và tiêu dùng. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả xã hội. Còn về phía ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất đi vay.
Nhìn chung sự tồn tại của NHTM cũng như chức năng trung gian tín dụng của nó đều được các lí thuyết hiện đại giải thích do sự không hoàn hảo của thị trường tài chính. Như vậy, với sự tồn tại của mình NHTM nói chung cũng như chức năng này nói riêng làm phong phú thêm hệ thống kênh dẫn vốn, điều chuyển vốn phục vụ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán
Nền kinh tế phát triển mạnh đồng nghĩa với hoạt động thanh toán ngày càng nhiều hơn. Song, hoạt động này của các chủ thể trong nền kinh tế gặp phải rất nhiều khó khăn do hạn chế về không gian, thời gian, về cách thanh toán … Nhận thức được điều đó các dịch vụ thanh toán của ngân hàng ra đời và phát triển, ngày càng được ưa chuộng vì nó đem lại sự thuận tiện, nhanh chóng, an toàn, tiết kiệm chi phí cho chủ thể trong nền kinh tế.
Thông qua việc mở tài khoản tiền gửi ở một ngân hàng nào đó, các NHTM có thể thực hiện thanh toán hộ chủ tài khoản thông qua việc trích tài khoản tiền gửi của người phải trả sang tài khoản tiền gửi của người được hưởng trên cở sở những phương tiện thanh toán khác nhau, với kỹ thuật ngày càng hiện đại và thủ tục thanh toán đơn giản.
Các phương tiện thanh toán của NHTM ngày càng đa dạng và phong phú như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ thanh toán...
Mặt khác, đối với chức năng này của NHTM sẽ thúc đẩy thêm doanh số hoạt động tín dụng. Bởi lẽ muốn thanh toán thông qua NHTM, khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi tại NHTM. Trên cơ sở đó giúp ngân hàng huy động số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng để cho vay, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Nhìn chung, thực hiện chức năng này đã giúp tiết kiệm cho nền kinh tế một lượng chi phí lớn phục vụ cho hoạt động thanh toán.
1.2.3. Chức năng tạo tiền (bút tệ)
Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng – ngân hàng phát hành tiền và ngân hàng trung gian thì NHTM không còn thực hiện chức năng phát hành tiền. Nhưng với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán thì các ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên số dư các tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền giao dịch. Từ tài khoản tiền gửi ban đầu thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng thương mại có khả năng tạo nên số tiền gửi gấp nhiều lần số tiền gửi ban đầu.
việc tạo bút tệ phải có những ràng buộc và giới hạn nhất định. Bởi vì bút tệ của người gửi tiền có tính chất chuyển đổi ra tiền mặt. Nếu những người gửi tiền bằng bút tệ đồng loạt yêu cầu rút tiền mặt sẽ dẫn đến tình trạng ngân hàng mất khả năng thanh toán. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi (công thức ở dưới). Hệ số này chịu sự tác động
Thứ hai, nghiên cứu cơ cấu sản phẩm, dịch vụ, thế mạnh, những điểm khác biệt và chiến lược xúc tiến hỗn hợp của đối thủ cạnh tranh, đơn cử như ngân hàng Ngoại Thương có thế mạnh về thẻ, ngân hàng Công thương có thế mạnh về khối lượng khách hàng doanh nghiệp… để đưa ra được biểu lãi suất, tổng mục sản phẩm riêng của mình.
Thứ ba, tiếp tục mở rộng mạng lưới kinh doanh phù hợp với điều kiện cụ thể của chi nhánh. Để hoàn thành kế hoạch năm 2005 dự kiến mở thêm hai phòng giao dịch và nâng một phòng giao dịch lên chi nhánh cấp hai trực thuộc với các điều kiện bố trí mạng lưới thích hợp rải đều trên địa bàn hoạt động, địa điểm đẹp, rộng rãi, gần khu dân cư và nơi chưa có mạng lưới NHNo&PTNT.
- Nên lựa chọn được một thông điệp quảng cáo phù hợp, có tính chất quảng bá, đi sâu vào công chúng nhanh nhất.
Có nhiều kênh để đưa thông diệp quảng cảo tới công chúng nhưng kênh mà nhanh nhất, tạo hiệu quả tốt nhất đó là kênh cá nhân. Bạn thử tưởng tượng bạn nghe một điều gì đó qua quảng cáo chưa chắc bạn đã tin hay tác động vào bạn nhưng nếu qua một người thân quen thì điều đó sẽ tác động rất nhanh đến bạn. Điều này rất cần thiết trong những đợt phát hành GTCG, tiết kiệm dự thưởng…
- Nên có biểu tượng riêng cho mình. Dựa vào vị trí của chi nhánh là trên đường Láng Hạ cộng với những đặc tính riêng của chi nhánh, chi nhánh nên đưa ra một biểu tượng riêng (ngoài biểu tượng của toàn hệ thống NHNo&PTNT) để tạo hình ảnh riêng của chi nhánh Láng Hạ.
Thứ tư, nên thực hiện thông báo báo cáo tài chính kết quả kinh doanh trên những phương tiện cần thiết, để từ đó khẳng định sự hoạt động hiệu quả, lành mạnh của chi nhánh, từ đó nâng cao uy tín của chi nhánh trên thị trường tài chính, tiền tệ.
2.1.4. Giải pháp về con người
Vai trò lãnh đạo, quản lý của ban giám đốc cũng như phong cách phục vụ của nhân viên đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao hình ảnh của ngân hàng, đặc biệt là trong nghiệp vụ huy động vốn. Đơn cử, đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả của lĩnh vực này.
Thứ nhất, về ban lãnh đạo của chi nhánh
- Trong những năm qua ban giám đốc đã rất quan tâm đến công tác huy động vốn nên nguồn vốn huy động không ngừng tăng trưởng. Tuy nhiên, trong điều kiện cạnh tranh rất gay gắt trong công tác huy động vốn thì ban giám đốc của chi nhánh cần có biện pháp cụ thể hơn trong chỉ đạo điều hành hoạt động huy động vốn. Như vạch ra chính sách huy động vốn một cách thích hợp, làm tốt hoạt động Marketing, tuyên truyền, quảng cáo, tổ chức hội nghị khách hàng…
- Ban giám đốc nên quan tâm hơn nữa tới các phòng ban, nhân viên của mình. Đưa ra những chính sách nhất định về khen thưởng thường xuyên theo tháng, theo quí cho những nhân viên có phong cách giao dịch tốt, hiệu quả công việc cao. Đơn cử như những hình thức tham quan du lịch cuối tuần sẽ giúp nâng cao tinh thần đoàn kết trong toàn cơ quan cũng như hăng say làm việc hơn trong một tuần mới.
- Có chính sách đào tạo bồi dưỡng năng cao trình độ cho cán bộ trong đó có đội ngũ cán bộ kế toán thông qua các lớp học chuyên đề ngắn hạn, cử cán bộ đi học để năng cao những kiến thức cơ bản.
Thứ hai, về đội ngũ nhân viên giao dịch
- Đội ngũ nhân viên trước tiên phải có trình độ, thường xuyên được bồi dưỡng để có thể thực hiện công tác giao dịch nhanh gọn. Đơn cử như các chương trình phần mềm kế toán, nghiệp vụ tính và chi trả lãi GTCG rất phức tạp nên yêu cầu giao dịch viên phải nắm rất vững về nghiệp vụ thì mới tạo được niềm tin cho khách hàng giao dịch.
- Nhân viên phải có phong thái giao dịch văn minh, lịch sự, nhanh nhẹn, tận tình. Đó là cách tạo được hình ảnh, uy tín của chi nhánh đối với khách hàng gửi tiền.
- Nhân viên phải hoà mình vào những hoạt động Marketing, quảng cáo khuếch trương của chi nhánh, điều này càng đặc biệt cần trong những đợt huy động vốn lớn , nhanh như phát hành GTCG hay những đợt cần có tính chất huy động vốn mang tính chất quảng bá nhanh, rộng khắp và đạt hiệu quả cao trong thời gian ngắn hay quảng bá những sản phẩm mới chưa được khách hàng biết đến nhiều.
2.2. Giải pháp về hoàn thiện kế toán huy động vốn
Từ thực trạng của công tác kế toán như đã trình bày ở trên, đơn cử đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán huy động vốn như sau:
2.2.1. Giải pháp về hoàn thiện thủ tục giấy tờ mở tài khoản và giao dịch gửi lĩnh tiền
- Hạn chế bớt những giấy tờ cần xuất trình trong công tác mở tài khoản, phát hành GTCG… để tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng. Điều này đồng nghĩa cần nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cũng như tính linh hoạt nhạy cảm của cán bộ kế toán để hạn chế những rủi ro trong giao dịch.
Ví dụ như: hạn chế những giấy tờ đảm bảo tính pháp lý của khách hàng thì đồng nghĩa với việc nhân viên giao dịch phải nhạy bén, có kinh nghiệm để nhận biết tính trung thực của khách hàng, hạn chế những rủi ro trong giao dịch mang lại.
2.2.2. Giải pháp về tăng cường bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho nhân viên kế toán
- tổ chức những công tác bồi dưỡng cho cán bộ kế toán về những nghiệp vụ ít phát sinh như phát hành, hay chi trả lãi giấy tờ có giá. Đồng thời, tổ chức đưa các văn bản mới về các hình thức huy động vốn để kế toán có thể cập nhập.
- Thực hiện chuyên môn hoá trên đa dạng hoá. Tức là, mặc dù đã thực hiện mô hình giao dịch một cửa, một giao dịch viên đảm nhận nhiều công việc một lúc, nhưng có thể chia nhỏ bộ phận kế toán đào tạo về các nghiệp vụ ít phát sinh, hay nghiệp vụ phức tạp để khi đột xuất có nghiệp vụ này nảy sinh thì từng bộ phận được đào tạo hoàn toàn có thể đảm nhận, xử lý nhanh chóng.
2.2.3. Giải về tiếp tục đầu tư nâng cao chất lượng hiện đại hoá công nghệ ngân hàng nói chung và kế toán nói riêng
- tiếp tục nâng cấp, nghiên cứu những phần mềm giao dịch mới, đặc biệt là những phần mềm giao dịch trong các nghiệp vụ tính lãi cho các loại tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá…
- Chi nhánh cần tiếp tục nâng cấp cơ sở vật chất, tin học để công tác kế toán đạt hiệu quả cao hơn.
2.3.4. Giải pháp về cách tính và hạch toán lãi dự trả
- Từ phần thực trạng ta nhận thấy hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam vẫn thực hiện cách tính lãi vẫn thực hiện hạch toán dự trả một lần (trong niên độ kế toán). Điều này, sẽ gây ra những hạn chế nhất định như đã nêu ở trên. Như vậy, nên thực hiện theo đúng quy định, tức là tiến hành hạch toán dự trả hàng tháng để tránh thất thoát, và thuận tiện cho kiểm tra.
3. Kiến nghị để thực hiện những giải pháp
3.1. Kiến nghị với Chính phủ
Thứ nhất, Chính phủ quan tâm, xây dựng hoàn thiện hơn nữa hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng. Bởi thị trường tài chính tiền tệ nói chung hay đặc thù kinh doanh của ngành ngân hàng nói riêng là một lĩnh vực nhạy cảm và có nhiều rủi ro và quan trọng hơn là sự biến đổi nhỏ của ngành ảnh hưởng đến nhiều chủ thể trong nền kinh tế. Chính vì thế, hoạt động ngân hàng chịu sự quản lý của nhiều cơ quan chức năng.
Tuy luật NHNN và luật TCTD có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/ 01/ 1998 thay thế hai pháp lệnh ngân hàng ban hành năm 1990. Cho đến nay, mặc dù quốc hội sửa đổi, đồng thời ban hành văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành, song vẫn còn nhiều bất cập , chồng chéo, bất cập, về cơ chế lãi suất, tỷ giá, qui chế cho vay…
Thứ hai, bằng những công cụ riêng của mình Chính phủ tạo sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô thể hiện ở sự ổn định của những yếu tố lãi suất, lạm phát, tỷ giá, chỉ số tăng trưởng hàng năm, chỉ số thất nghiệp,... Đây là một trong những điều kiện hàng đầu để ổn định tài chính tiền tệ. Khi thị trường tiền tệ ổn định sẽ tạo được thuận lợi cho công tác huy động vốn vì khi đó khách hàng sẽ giảm sự tích luỹ vàng… tin tưởng hơn vào sự thu nhập từ gửi tiền vào ngân hàng.
Thứ ba, Chính phủ nên cho phép các NHTM được áp dụng chế độ lãi suất bán linh hoạt (thả nổi một phần theo tỷ lệ lợi nhuận của ngân hàng) để tăng tính hấp dẫn và khả năng huy động của ngân hàng.
Thứ tư, có thể miễn giảm thuế thu nhập đối với lợi tức thu được từ phát hành trái phiếu. Điều này sẽ kích thích rất lớn đến khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động huy động vốn trung dài hạn cho ngân hàng.
3.2. Kiến nghị đối với NHNN
Để nghiệp vụ huy động vốn cũng như công tác kế toán huy động vốn ngày càng đạt hiệu quả cao hơn, cá nhân tui có một số kiến nghị đối với NHNN như sau:
Thứ nhất, NHNN có phương pháp xác định lãi suất giao dịch trên thị trường liên ngân hàng một cách khoa học tạo điều kiện cho các NHTM xác định được lãi suất hoạt động nói chung, lãi suất huy động vốn nói riêng, đạt hiệu quả cao.
Thứ hai, NHNN nên có những chính sách tạo chủ động cho tất cả các NHTM, không phân biệt thành phần kinh tế, tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các NHTM tham gia vào lĩnh vực phát hành các GTCG trung, dài hạn.
Thứ ba, NHNN và Uỷ ban chứng khoán cần có những phương pháp phối hợp với nhau để tạo điều kiện cho các NHTM phát hành GTCG (trái phiếu) trên thị trường chứng khoán tập trung (hiện tại chỉ có ngân hàng đầu tư và phát triển được phát hành trên thị trường chứng khoán tập trung) vì hầu hết trái phiếu được bán lẻ trực tiếp cho khách hàng.
Thứ tư, tạo sự linh hoạt hơn nữa trong công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được xem xét để giảm, tạo điều kiện thúc đẩy hơn nữa nghiệp vụ huy động vốn.
Thứ năm, vận hành thị trường mở linh hoạt hơn nữa với khối lượng lớn hơn. Đây là tiền đề quan trọng để thúc đặy phát triển thị trường vốn và cũng tăng cường huy động vốn trung dài hạn ở nước ta.
Thứ sáu, quan tâm tới chính sách tỷ giá hơn nữa để tránh tình trạng mất cân đối giữa nguồn vốn nội ngoại tệ, hay sự mất giá qúa cao của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ mạnh như: USD, EUR.
3.3. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam
*Về chiến lược huy động vốn
NHNo&PTNT Việt Nam cần xây dựng chiến lược huy động vốn trung dài hạn cho toàn hệ thống, hướng dẫn cụ thể tới từng chi nhánh, bởi chi nhánh tự làm sẽ ít thông tin, cũng như điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như năng lực cán bộ chưa đáp ứng một cách đầy đủ. Từ đó, hạn chế được rủi ro và ấn chỉ không phù hợp.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Lời nói đầu
Đối với bất kỳ một tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nào thì vốn cũng là yêu cầu, mục tiêu hàng đầu cho sự tồn tại và phát triển. Riêng đối với lĩnh vực ngân hàng thì vốn lại càng đóng một vị trí quan trọng hơn vì nó vừa là phương tiện vừa là đối tượng kinh doanh của ngân hàng.
Theo một nguyên lý phát triển kinh tế nói chung, để có tăng trưởng kinh tế thì phải có vốn. Để góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế của nước ta năm 2004 là 7,7% và định hướng cho năm 2005 là 8,5% thì lại càng cần có nguồn vốn lớn. Tuy thị trường tài chính, tiền tệ của nước ta đã phát triển hơn, nhiều tổ chức trung gian tài chính ra đời, mở rộng hoạt động nhưng nguồn vốn cho tăng trưởng vẫn chủ yếu là từ nguồn của hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, thị trường chứng khoán của nước ta chưa phát triển, điều này càng làm tăng áp lực cho việc cung ứng vốn tín dụng của toàn bộ hệ thống NHTM, đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của nguồn vốn hoạt động trong những năm qua các ngân hàng thương mại đã tập trung làm tốt công tác kế toán huy động vốn nên nguồn vốn của các hệ thống NHTM (trong đó có hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam) không ngừng tăng lên, nhờ đó các NHTM đã đẩy mạnh cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Tuy nhiên, theo nhận định của các nhà kinh tế thì vốn nằm trong dân cư và các tổ chức kinh tế còn nhiều. Trong khi các NHTM vẫn còn thiếu vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn. Hơn nữa, trong những năm gần đây, thị trường tài chính tiền tệ của nước ta tồn tại một thực trạng, đó là, tốc độ tăng trưởng vốn huy động luôn thấp hơn tăng trưởng dư nợ cho vay. Năm 2004 ước tính vốn huy động tăng khoảng 23%, nhưng dư nợ cho vay tăng lên 27%. Đặc biệt, là nguồn vốn huy động từ đồng nội tệ còn tăng chậm, mặc dù các NHTM có nhiều biện pháp đặt ra nhưng cũng không cải thiện được tình hình nhiều. Chính vì vậy, việc tăng cường huy động vốn và tổ chức tốt công tác kế toán huy động vốn đã được đặt ra đối với tất cả các ngân hàng thương mại, trong đó có chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.
Vì những lý do nêu trên nên trong quá trình thực tập tốt nghiệp tại NHNo&PTNT Láng Hạ với sự hướng dẫn của thầy giáo hướng dẫn; của các cô chú, anh chị trong chi nhánh em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động huy động vốn và hoàn thiện kế toán huy động vốn tại NHNo&PTNT Láng Hạ” làm đề tài khoá luận của mình.
Đối tượng và phạm vi của đề tài là những ngiệp vụ phát sinh và quy trình kế toán huy động vốn của của Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ (nơi em thực tập tốt nghiệp) trong ba năm gần đây năm 2002, năm 2003, năm 2004. Nó được thể hiện cụ thể ở nghiệp vụ nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá và tổ chức hạch toán những nghiệp vụ này…
Những đặc điểm của đối tượng, những mặt mạnh, mặt yếu của phạm vi đề tài sẽ được làm rõ bằng những phương pháp truyền thống như duy vật biện chứng, thống kê, tổng hợp phân tích,… Các phương pháp này được vận dụng đan xen với nhau kết hợp những vấn đề về lý luận và con số làm nổi bật lên tính cấp thiết của đề tài.
Kết cấu đề tài gồm có ba phần:
Chương 1: Tổng quan về nguồn vốn huy động và kế toán huy động vốn của ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn và kế toán huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn và hoàn thiện kế toán huy động vốn chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ
Do sự hạn chế về kiến thức và thời gian nên đề tài không tránh khỏi những sai sót, em mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn cũng như tất cả những ai quan tâm đến đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn.
Chương 1:
Tổng quan về nguồn vồn huy động,
kế toán nguồn vốn huy động của ngân hàng
1. Khái niệm, chức năng của ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Đến lượt mình sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Hình thức ngân hàng đầu tiên tồn tại trong lịch sử phát triển được gọi tên là ngân hàng thợ vàng.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hay đúc tiền của các thợ vàng. Sự giao lưu thương mại, quốc tế đã thúc đẩy người làm nghề đổi tiền, đúc tiền thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại, từ đó thu được lợi nhuận từ chênh lệch mua bán. Bên cạnh đó, họ còn thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Nghiệp vụ này làm tăng khả năng đa dạng các loại tiền, quy mô tài sản, từ đó hình thành nên nghiệp vụ thanh toán hộ và cho vay.
Hình thức thứ hai tồn tại trong quá trình phát triển đó ngân hàng thương mại, nó được thành lập do nhiều nhà buôn góp vốn lại với nhau.
Ngân hàng thương mại với chức năng chính là tài trợ ngắn hạn, thanh toán hộ, gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Tức là các khoản tín dụng ngắn hạn của loại hình ngân hàng này dựa trên quá trình luân chuyển hàng hoá với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra từ việc sử dụng tiền vay.
Hình thức ngân hàng thứ ba tồn tại trong quá trình phát triển đó là ngân hàng tiền gửi. Loại hình này ra đời nhằm hạn chế sự phá sản của nhiều ngân hàng thương mại do gặp rủi ro trong hoạt động cho vay.
Đặc trưng của loại hình này là chỉ thực hiện giữ hộ, thanh toán hộ để lấy phí, không thực hiện nghiệp vụ cho vay. Tuỳ từng vùng mà có những tên gọi khác nhau, song giữa chúng có đặc điểm chung nhất là trung gian tài chính thực hiện kinh doanh tiền tệ.
Đến những năm cuối thế kỷ XX, cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế và khoa học công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh về mọi mặt, đa dạng cả về loại hình cũng như các nghiệp vụ trong từng ngân hàng.
Trên đây là sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của NHTM trên thế giới, từ những sự hình thành đó cũng làm nảy sinh nhiều khái niệm về NHTM, tuỳ theo từng thời kỳ, từng nơi nhất định. Đơn cử, đưa ra một khái niệm được xem là chính xác nhất khi định nghĩa về ngân hàng thương mại.
1.1.2. khái niệm
NHTM là một tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay cũng như cung cấp dịch vụ thanh toán.
1.2. Chức năng của NHTM
1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng
Như chúng ta đã biết trong nền kinh tế luôn luôn tồn tại hai đối tượng đối lập nhau, đó là các cá nhân, tổ chức tạm thời thâm hụt tài chính để phục vụ sản xuất, kinh doanh tiêu dùng và các cá nhân, tổ chức đang thặng dư tài chính sau quá trình sản xuất, kinh doanh. Một câu hỏi đặt ra là làm như thế nào để hai chủ thể trong nền kinh tế có thể tiếp xúc với nhau để giải quyết mâu thuẫn đó (do giữa họ có giới hạn vì sự không phù hợp về qui mô, thời gian, không gian…). Đây là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính, trong đó NHTM có vai trò chủ yếu.
Mặt khác, hoạt động chính của NHTM là đi vay để cho vay. Điều đó, chứng tỏ rằng một trong những chức năng quan trọng của NHTM là trung gian tín dụng. Tức là NHTM làm nhiệm vụ huy động những nguồn vốn dư thừa trong nền kinh tế và sau đó cho vay các chủ thể cần vốn trong nền kinh tế. Hay nói cách khác là NHTM đã chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
Qua chức năng trung gian tài chính của mình NHTM đã đem lại lợi ích cho cả ba chủ thể tham gia đó là: người gửi tiền, người vay tiền, và NHTM. Người gửi tiền sẽ nhận lợi tức và các tiện ích đi kèm như thanh toán, cất trữ. Người vay tiền sẽ thoã mãn được nhu cầu bổ sung nguồn vốn của mình cho kinh doanh và tiêu dùng. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả xã hội. Còn về phía ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất đi vay.
Nhìn chung sự tồn tại của NHTM cũng như chức năng trung gian tín dụng của nó đều được các lí thuyết hiện đại giải thích do sự không hoàn hảo của thị trường tài chính. Như vậy, với sự tồn tại của mình NHTM nói chung cũng như chức năng này nói riêng làm phong phú thêm hệ thống kênh dẫn vốn, điều chuyển vốn phục vụ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán
Nền kinh tế phát triển mạnh đồng nghĩa với hoạt động thanh toán ngày càng nhiều hơn. Song, hoạt động này của các chủ thể trong nền kinh tế gặp phải rất nhiều khó khăn do hạn chế về không gian, thời gian, về cách thanh toán … Nhận thức được điều đó các dịch vụ thanh toán của ngân hàng ra đời và phát triển, ngày càng được ưa chuộng vì nó đem lại sự thuận tiện, nhanh chóng, an toàn, tiết kiệm chi phí cho chủ thể trong nền kinh tế.
Thông qua việc mở tài khoản tiền gửi ở một ngân hàng nào đó, các NHTM có thể thực hiện thanh toán hộ chủ tài khoản thông qua việc trích tài khoản tiền gửi của người phải trả sang tài khoản tiền gửi của người được hưởng trên cở sở những phương tiện thanh toán khác nhau, với kỹ thuật ngày càng hiện đại và thủ tục thanh toán đơn giản.
Các phương tiện thanh toán của NHTM ngày càng đa dạng và phong phú như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ thanh toán...
Mặt khác, đối với chức năng này của NHTM sẽ thúc đẩy thêm doanh số hoạt động tín dụng. Bởi lẽ muốn thanh toán thông qua NHTM, khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi tại NHTM. Trên cơ sở đó giúp ngân hàng huy động số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng để cho vay, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Nhìn chung, thực hiện chức năng này đã giúp tiết kiệm cho nền kinh tế một lượng chi phí lớn phục vụ cho hoạt động thanh toán.
1.2.3. Chức năng tạo tiền (bút tệ)
Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng – ngân hàng phát hành tiền và ngân hàng trung gian thì NHTM không còn thực hiện chức năng phát hành tiền. Nhưng với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán thì các ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên số dư các tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền giao dịch. Từ tài khoản tiền gửi ban đầu thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng thương mại có khả năng tạo nên số tiền gửi gấp nhiều lần số tiền gửi ban đầu.
việc tạo bút tệ phải có những ràng buộc và giới hạn nhất định. Bởi vì bút tệ của người gửi tiền có tính chất chuyển đổi ra tiền mặt. Nếu những người gửi tiền bằng bút tệ đồng loạt yêu cầu rút tiền mặt sẽ dẫn đến tình trạng ngân hàng mất khả năng thanh toán. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi (công thức ở dưới). Hệ số này chịu sự tác động
Thứ hai, nghiên cứu cơ cấu sản phẩm, dịch vụ, thế mạnh, những điểm khác biệt và chiến lược xúc tiến hỗn hợp của đối thủ cạnh tranh, đơn cử như ngân hàng Ngoại Thương có thế mạnh về thẻ, ngân hàng Công thương có thế mạnh về khối lượng khách hàng doanh nghiệp… để đưa ra được biểu lãi suất, tổng mục sản phẩm riêng của mình.
Thứ ba, tiếp tục mở rộng mạng lưới kinh doanh phù hợp với điều kiện cụ thể của chi nhánh. Để hoàn thành kế hoạch năm 2005 dự kiến mở thêm hai phòng giao dịch và nâng một phòng giao dịch lên chi nhánh cấp hai trực thuộc với các điều kiện bố trí mạng lưới thích hợp rải đều trên địa bàn hoạt động, địa điểm đẹp, rộng rãi, gần khu dân cư và nơi chưa có mạng lưới NHNo&PTNT.
- Nên lựa chọn được một thông điệp quảng cáo phù hợp, có tính chất quảng bá, đi sâu vào công chúng nhanh nhất.
Có nhiều kênh để đưa thông diệp quảng cảo tới công chúng nhưng kênh mà nhanh nhất, tạo hiệu quả tốt nhất đó là kênh cá nhân. Bạn thử tưởng tượng bạn nghe một điều gì đó qua quảng cáo chưa chắc bạn đã tin hay tác động vào bạn nhưng nếu qua một người thân quen thì điều đó sẽ tác động rất nhanh đến bạn. Điều này rất cần thiết trong những đợt phát hành GTCG, tiết kiệm dự thưởng…
- Nên có biểu tượng riêng cho mình. Dựa vào vị trí của chi nhánh là trên đường Láng Hạ cộng với những đặc tính riêng của chi nhánh, chi nhánh nên đưa ra một biểu tượng riêng (ngoài biểu tượng của toàn hệ thống NHNo&PTNT) để tạo hình ảnh riêng của chi nhánh Láng Hạ.
Thứ tư, nên thực hiện thông báo báo cáo tài chính kết quả kinh doanh trên những phương tiện cần thiết, để từ đó khẳng định sự hoạt động hiệu quả, lành mạnh của chi nhánh, từ đó nâng cao uy tín của chi nhánh trên thị trường tài chính, tiền tệ.
2.1.4. Giải pháp về con người
Vai trò lãnh đạo, quản lý của ban giám đốc cũng như phong cách phục vụ của nhân viên đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao hình ảnh của ngân hàng, đặc biệt là trong nghiệp vụ huy động vốn. Đơn cử, đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả của lĩnh vực này.
Thứ nhất, về ban lãnh đạo của chi nhánh
- Trong những năm qua ban giám đốc đã rất quan tâm đến công tác huy động vốn nên nguồn vốn huy động không ngừng tăng trưởng. Tuy nhiên, trong điều kiện cạnh tranh rất gay gắt trong công tác huy động vốn thì ban giám đốc của chi nhánh cần có biện pháp cụ thể hơn trong chỉ đạo điều hành hoạt động huy động vốn. Như vạch ra chính sách huy động vốn một cách thích hợp, làm tốt hoạt động Marketing, tuyên truyền, quảng cáo, tổ chức hội nghị khách hàng…
- Ban giám đốc nên quan tâm hơn nữa tới các phòng ban, nhân viên của mình. Đưa ra những chính sách nhất định về khen thưởng thường xuyên theo tháng, theo quí cho những nhân viên có phong cách giao dịch tốt, hiệu quả công việc cao. Đơn cử như những hình thức tham quan du lịch cuối tuần sẽ giúp nâng cao tinh thần đoàn kết trong toàn cơ quan cũng như hăng say làm việc hơn trong một tuần mới.
- Có chính sách đào tạo bồi dưỡng năng cao trình độ cho cán bộ trong đó có đội ngũ cán bộ kế toán thông qua các lớp học chuyên đề ngắn hạn, cử cán bộ đi học để năng cao những kiến thức cơ bản.
Thứ hai, về đội ngũ nhân viên giao dịch
- Đội ngũ nhân viên trước tiên phải có trình độ, thường xuyên được bồi dưỡng để có thể thực hiện công tác giao dịch nhanh gọn. Đơn cử như các chương trình phần mềm kế toán, nghiệp vụ tính và chi trả lãi GTCG rất phức tạp nên yêu cầu giao dịch viên phải nắm rất vững về nghiệp vụ thì mới tạo được niềm tin cho khách hàng giao dịch.
- Nhân viên phải có phong thái giao dịch văn minh, lịch sự, nhanh nhẹn, tận tình. Đó là cách tạo được hình ảnh, uy tín của chi nhánh đối với khách hàng gửi tiền.
- Nhân viên phải hoà mình vào những hoạt động Marketing, quảng cáo khuếch trương của chi nhánh, điều này càng đặc biệt cần trong những đợt huy động vốn lớn , nhanh như phát hành GTCG hay những đợt cần có tính chất huy động vốn mang tính chất quảng bá nhanh, rộng khắp và đạt hiệu quả cao trong thời gian ngắn hay quảng bá những sản phẩm mới chưa được khách hàng biết đến nhiều.
2.2. Giải pháp về hoàn thiện kế toán huy động vốn
Từ thực trạng của công tác kế toán như đã trình bày ở trên, đơn cử đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán huy động vốn như sau:
2.2.1. Giải pháp về hoàn thiện thủ tục giấy tờ mở tài khoản và giao dịch gửi lĩnh tiền
- Hạn chế bớt những giấy tờ cần xuất trình trong công tác mở tài khoản, phát hành GTCG… để tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng. Điều này đồng nghĩa cần nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cũng như tính linh hoạt nhạy cảm của cán bộ kế toán để hạn chế những rủi ro trong giao dịch.
Ví dụ như: hạn chế những giấy tờ đảm bảo tính pháp lý của khách hàng thì đồng nghĩa với việc nhân viên giao dịch phải nhạy bén, có kinh nghiệm để nhận biết tính trung thực của khách hàng, hạn chế những rủi ro trong giao dịch mang lại.
2.2.2. Giải pháp về tăng cường bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho nhân viên kế toán
- tổ chức những công tác bồi dưỡng cho cán bộ kế toán về những nghiệp vụ ít phát sinh như phát hành, hay chi trả lãi giấy tờ có giá. Đồng thời, tổ chức đưa các văn bản mới về các hình thức huy động vốn để kế toán có thể cập nhập.
- Thực hiện chuyên môn hoá trên đa dạng hoá. Tức là, mặc dù đã thực hiện mô hình giao dịch một cửa, một giao dịch viên đảm nhận nhiều công việc một lúc, nhưng có thể chia nhỏ bộ phận kế toán đào tạo về các nghiệp vụ ít phát sinh, hay nghiệp vụ phức tạp để khi đột xuất có nghiệp vụ này nảy sinh thì từng bộ phận được đào tạo hoàn toàn có thể đảm nhận, xử lý nhanh chóng.
2.2.3. Giải về tiếp tục đầu tư nâng cao chất lượng hiện đại hoá công nghệ ngân hàng nói chung và kế toán nói riêng
- tiếp tục nâng cấp, nghiên cứu những phần mềm giao dịch mới, đặc biệt là những phần mềm giao dịch trong các nghiệp vụ tính lãi cho các loại tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá…
- Chi nhánh cần tiếp tục nâng cấp cơ sở vật chất, tin học để công tác kế toán đạt hiệu quả cao hơn.
2.3.4. Giải pháp về cách tính và hạch toán lãi dự trả
- Từ phần thực trạng ta nhận thấy hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam vẫn thực hiện cách tính lãi vẫn thực hiện hạch toán dự trả một lần (trong niên độ kế toán). Điều này, sẽ gây ra những hạn chế nhất định như đã nêu ở trên. Như vậy, nên thực hiện theo đúng quy định, tức là tiến hành hạch toán dự trả hàng tháng để tránh thất thoát, và thuận tiện cho kiểm tra.
3. Kiến nghị để thực hiện những giải pháp
3.1. Kiến nghị với Chính phủ
Thứ nhất, Chính phủ quan tâm, xây dựng hoàn thiện hơn nữa hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng. Bởi thị trường tài chính tiền tệ nói chung hay đặc thù kinh doanh của ngành ngân hàng nói riêng là một lĩnh vực nhạy cảm và có nhiều rủi ro và quan trọng hơn là sự biến đổi nhỏ của ngành ảnh hưởng đến nhiều chủ thể trong nền kinh tế. Chính vì thế, hoạt động ngân hàng chịu sự quản lý của nhiều cơ quan chức năng.
Tuy luật NHNN và luật TCTD có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/ 01/ 1998 thay thế hai pháp lệnh ngân hàng ban hành năm 1990. Cho đến nay, mặc dù quốc hội sửa đổi, đồng thời ban hành văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành, song vẫn còn nhiều bất cập , chồng chéo, bất cập, về cơ chế lãi suất, tỷ giá, qui chế cho vay…
Thứ hai, bằng những công cụ riêng của mình Chính phủ tạo sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô thể hiện ở sự ổn định của những yếu tố lãi suất, lạm phát, tỷ giá, chỉ số tăng trưởng hàng năm, chỉ số thất nghiệp,... Đây là một trong những điều kiện hàng đầu để ổn định tài chính tiền tệ. Khi thị trường tiền tệ ổn định sẽ tạo được thuận lợi cho công tác huy động vốn vì khi đó khách hàng sẽ giảm sự tích luỹ vàng… tin tưởng hơn vào sự thu nhập từ gửi tiền vào ngân hàng.
Thứ ba, Chính phủ nên cho phép các NHTM được áp dụng chế độ lãi suất bán linh hoạt (thả nổi một phần theo tỷ lệ lợi nhuận của ngân hàng) để tăng tính hấp dẫn và khả năng huy động của ngân hàng.
Thứ tư, có thể miễn giảm thuế thu nhập đối với lợi tức thu được từ phát hành trái phiếu. Điều này sẽ kích thích rất lớn đến khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động huy động vốn trung dài hạn cho ngân hàng.
3.2. Kiến nghị đối với NHNN
Để nghiệp vụ huy động vốn cũng như công tác kế toán huy động vốn ngày càng đạt hiệu quả cao hơn, cá nhân tui có một số kiến nghị đối với NHNN như sau:
Thứ nhất, NHNN có phương pháp xác định lãi suất giao dịch trên thị trường liên ngân hàng một cách khoa học tạo điều kiện cho các NHTM xác định được lãi suất hoạt động nói chung, lãi suất huy động vốn nói riêng, đạt hiệu quả cao.
Thứ hai, NHNN nên có những chính sách tạo chủ động cho tất cả các NHTM, không phân biệt thành phần kinh tế, tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các NHTM tham gia vào lĩnh vực phát hành các GTCG trung, dài hạn.
Thứ ba, NHNN và Uỷ ban chứng khoán cần có những phương pháp phối hợp với nhau để tạo điều kiện cho các NHTM phát hành GTCG (trái phiếu) trên thị trường chứng khoán tập trung (hiện tại chỉ có ngân hàng đầu tư và phát triển được phát hành trên thị trường chứng khoán tập trung) vì hầu hết trái phiếu được bán lẻ trực tiếp cho khách hàng.
Thứ tư, tạo sự linh hoạt hơn nữa trong công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được xem xét để giảm, tạo điều kiện thúc đẩy hơn nữa nghiệp vụ huy động vốn.
Thứ năm, vận hành thị trường mở linh hoạt hơn nữa với khối lượng lớn hơn. Đây là tiền đề quan trọng để thúc đặy phát triển thị trường vốn và cũng tăng cường huy động vốn trung dài hạn ở nước ta.
Thứ sáu, quan tâm tới chính sách tỷ giá hơn nữa để tránh tình trạng mất cân đối giữa nguồn vốn nội ngoại tệ, hay sự mất giá qúa cao của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ mạnh như: USD, EUR.
3.3. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam
*Về chiến lược huy động vốn
NHNo&PTNT Việt Nam cần xây dựng chiến lược huy động vốn trung dài hạn cho toàn hệ thống, hướng dẫn cụ thể tới từng chi nhánh, bởi chi nhánh tự làm sẽ ít thông tin, cũng như điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như năng lực cán bộ chưa đáp ứng một cách đầy đủ. Từ đó, hạn chế được rủi ro và ấn chỉ không phù hợp.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán, công tác kế toán huy động vốn, kiến nghị với ngân hàng nhà nước góp phần hoàn thiện huy động vốn, Một số giải pháp nhằm huy động các nguồn huy động vốn đầu tư a. Nâng cao trình độ quản trị và đào tạo đội ngũ lãnh đạo DN BĐS b. Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và sự đa dạng của dịch vụ cung cấp c. Nâng cao trình độ, bồi dưỡng kiến thức BĐS cho nhân viên d. Mở rộng thị trường đầu tư kinh doanh theo lộ trình cụ thể, xây dựng hình tượng trước công chúng e. Mở rộng kênh huy động vốn
Last edited by a moderator: