Download miễn phí Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng nông thủy sản xuất khẩu của nước ta
Trên thị trường lúa gạo thế giới hiện nay, mặc dù nước ta xếp thứ 2 về số lượng gạo xuất khẩu sau Thái Lan; song trên thực tế ngoài Thái Lan ra, chúng ta còn vấp phải sự cạnh tranh từ rất nhiều nước như: Mĩ, ấn Độ, Pakistan, Trung Quốc và gần đây là Campuchia. Những nước này đã làm ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo của Việt Nam. So với Thái Lan, sản lượng gạo của ta xấp xỉ với sản lượng gạo của họ, song do dân số đông hơn nên xuất khẩu gạo của ta vẫn chưa bằng được (Thái Lan xuất khoảng 6 triệu tấn/năm) mặc dầu năng suất lúa của ta cao hơn hẳn của Thái Lan.
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2013-11-05-de_tai_mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_suc_canh_tra.bSMfGdpauE.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-44230/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
ăm 1999 và năm 2000, lũ lụt, hạn hán xảy ra ở nhiều nơi khiến cho các nước vốn xuất khẩu gạo bị giảm sản lượng mạnh, khả năng xuất khẩu hạn chế; còn các nước vốn đã nhập khẩu gạo thì lại càng phải nhập nhiều hơn. Điển hình là châu Phi, Trung Đông và Mĩ latinh vừa qua gặp hạn hán nặng và tình hình chính trị rất bất ổn nên trong những năm tới họ sẽ phải nhập thêm nhiều. Ngược lại, những nước trước đây vẫn nhập khẩu lớn gạo của Việt Nam ở châu á là Indônexia, Philippin, Bănglađét sẽ giảm nhu cầu trong những năm tới. Theo cơ quan hậu cần quốc gia Indônexia, một vài năm tới nước này chỉ nhập khoảng 1,8-2 triệu tấn gạo thay vì 3-3,5 triệu tấn như trước. Còn Philippin cũng chỉ nhập 0,5-0,8 triệu tấn, giảm 0,5-0,7 triệu tấn(1): Xuất khẩu gạo năm 2000, thời cơ -thách thức- giải pháp. Nguyễn Cảnh Hưng Tạp chí Cộng sản số 8(4/2000) trang 41. Sở dĩ như vậy là vì có sự cạnh tranh giữa gạo của Thái Lan, Trung Quốc và gần đây là Campuchia với Việt Nam về chất lượng, giá cả và thủ tục. Đây là một nguy cơ rất lớn đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Nhìn chung, trên thị trường chính của chúng ta, khả năng phát triển là rất có hạn bởi vì như trên đã nói một số nước nhập khẩu lớn đã dần đi vào ổn định kinh tế, chính trị, do vậy nhu cầu nhập khẩu gạo của họ giảm. ở châu Phi, Trung Đông và Mĩ latinh nhu cầu nhập khẩu có tăng, song thị trường ở đây còn nhỏ bé, hơn nữa chúng ta lại có nhiều đối thủ cạnh tranh, do vậy tỉ trọng gạo xuất sang khu vực này của chúng ta sẽ giảm đi và thay vào đó tỉ trọng xuất sang một số thị trường tiềm năng mới mở sẽ ngày một tăng lên trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo. Mục tiêu của chúng ta là cố gắng giữ vững thị trường truyền thống, tăng cường, xâm nhập và mở rộng các thị trường mới.
Đối với mặt hàng cà phê, hiện nay, chúng ta đã xuất khẩu tới hơn 40 nước và lãnh thổ, trong đó chủ yếu xuất sang EU, Bắc Mĩ, Nhật, Singapore. Chủng loại cà phê xuất khẩu của chúng ta rất cùng kiệt nàn, chủ yếu là cà phê hạt; cho nên chúng ta thường xuất sang các nước phát triển có nền công nghiệp chế biến, để họ sản xuất ra cà phê tinh chế. Thị trường cà phê là một thị trường cực kì bất ổn, luôn có những biến động rất lớn, gây khó khăn cho các nước sản xuất và xuất khẩu cà phê nhân. Có năm như niên vụ 1998-1999, giá cà phê lên rất cao khoảng 900-1200 USD/tấn; nhưng năm 1999-2000 giá sụt đi hơn một nửa chỉ còn khoảng 400-550 USD/tấn. Điều đó có nghĩa là, có năm các nước nhập khẩu cà phê nhân nhiều, có năm họ nhập ít.
Trong những năm tới, thị trường chính của chúng ta vẫn là EU, Bắc Mĩ, Nhật, và Singapore. Cà phê của chúng ta chất lượng tương đối tốt mà giá lại rẻ nên vẫn có sức cạnh tranh trên các thị trường này.
Đối với mặt hàng cao su, thị trường xuất khẩu chủ yếu của chúng ta trước đây là Liên Xô, khoảng 80% sản lượng cao su của Việt Nam. Song những năm gần đây, thị trường này không những không được mở rộng mà còn bị thu hẹp. Hiện nay, ta chủ yếu xuất khẩu cao su sang Trung Quốc, chiếm 70% sản lượng. Nhưng do xuất qua tiểu ngạch nên thường xuyên bị ép giá, nhu cầu mặt hàng không ổn định, tình trạng ứ đọng sản phẩm thường xuyên xảy ra; xuất khẩu sang châu Âu và Mỹ chỉ đạt 10% sản lượng((1): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp định WTO về nông nghiệp. Bộ Thương mại(12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/1999 trang 24
(2): Thời báo kinh tế Việ Nam số 146 (6/12/2000)
; còn tiêu thụ trong nước thì thật ít ỏi chỉ khoảng 20%.
Năm 2000, ta đã khai thác 213.000 tấn và xuất khẩu sang Nga 400 tấn với giá là 670 USD/tấn tăng 30-40 USD/tấn so với năm trước(2).
Chất lượng cao su của chúng ta tốt, nhưng không phù hợp với nhu cầu của thế giới nên chỉ xuất được sang Trung Quốc là chủ yếu.
Đối với mặt hàng thủy sản, thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là EU chiếm khoảng 60%. Đây là bạn hàng xuất khẩu thủy sản thường xuyên của Việt Nam từ nhiều năm qua. Khu vực này tuy dân số không lớn nhưng số lượng hàng thủy sản tiêu thụ nhiều. Tính đến năm 1998, cả nước đã có 27 doanh nghiệp chế biến thủy sản được xếp vào danh sách các đơn vị đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sản phẩm sang thị trường châu Âu.
Ngoài ra, ta còn xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản, chiếm khoảng 20% sản lượng xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một thị trường rất khó tính, đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao. Nhưng là thị trường xuất khẩu chủ yếu của ta từ lâu. Nhật Bản cũng là một cường quốc về đánh bắt thủy hải sản, với các phương tiện kỹ thuật rất hiện đại nhưng giá thành lại cao hơn so với nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam, hơn nữa chủng loại thủy hải sản của ta lại rất đa dạng, phong phú.
Ngoài EU và Nhật ra, Singapore cũng là thị trường xuất khẩu thủy sản chủ yếu của ta.
2-Thị trường tiềm năng:
Ngoài thị trường chính ở châu á, châu Phi, hiện nay gạo Việt Nam đã và đang xuất sang các thị trường mới như EU, Bắc Mĩ, Nhật, Hàn Quốc. Đây là các thị trường rất khó tính nhưng có tiềm năng lớn vì những nước này có nền công nghiệp và dịch vụ ngày càng phát triển mạnh mẽ, nông nghiệp ngày càng không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Sở dĩ như vậy vì phần lớn diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị lấn chiếm để sử dụng vào việc xây dựng các khu công nghiệp, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí và khu dân cư. Cùng với quá trình đó là việc một bộ phận dân cư tách ra khỏi lao động nông nghiệp để tham gia vào lực lượng lao động phi nông nghiệp. Do vậy, sản lượng tăng thêm do áp dụng khoa học kĩ thuật không bù được sản lượng mất đi do thiếu đất canh tác và thiếu lao động nông nghiệp.
Thêm vào đó, quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với EU, Nhật, Hàn Quốc đặc biệt là Mĩ ngày càng có bước phát triển mới. Riêng với EU và Nhật, Việt Nam đã được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN), do vậy giá gạo nhập vào các nước này sẽ giảm đi. Mặt khác, chất lượng gạo của chúng ta không ngừng được cải thiện do thành quả của việc ứng dụng khoa học vào nông nghiệp, do đó ngày càng được các khách hàng tin cậy và trụ vững được trên thị trường này.
Đối với cà phê, thị trường tiềm năng có thể kể đến là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Nga và Đông Âu. Những nước này hàng năm vẫn nhập cà phê của ta, song số lượng rất khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của ta và bạn. Do vậy, trong những năm tới, mục tiêu của chúng ta là đẩy mạnh cạnh tranh nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này, khẳng định uy tín và chất lượng của cà phê Việt Nam. Tuy nhiên , chúng ta cũng cần đề phòng các biến động có thể xảy ra vì thị trường cà phê thường không ổn định.
Đối với cao su, thị trường nội địa tiêu thụ 20%-30% sản lượng cao su. Tuy nhiên, thị trường này có tiềm năng lớn vì nước ta là nước đang phát triển nên có nhu cầu khối lượng cao su thiên nhiên lớn trong tương lai. Những ngành tiêu thụ cao su lớn nhất là ngành công nghiệp ô tô, xe máy và các ngành công nghiệp hỗn hợp s...