trungkienairvn

New Member
Download Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào ngành điện Việt Nam trong thời gian tới

Download Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào ngành điện Việt Nam trong thời gian tới miễn phí





2001 sau 3 năm trì hoãn từ phía chính phủ và mất 3 năm trước đó cho quá trình đàm phán tương tự như Phú mỹ 2.2 với EVN, sau 28 tháng xây dựng nhà máy bắt đầu vận hành vào tháng 3 năm 2004 với tổng công suất thiết kế là 715 MW góp phần cải thiện nguồn cung điện cho VN.
Nhà máy điện Phú Mỹ 3 có tổng vốn đầu tư là 480 triệu USD. Đây là dự án nhà máy điện thứ 2 được xây dựng tại Việt Nam theo hình thức xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT), do 3 công ty nước ngoài góp vốn đầu tư, tỷ lệ vốn góp mỗi công ty bằng nhau là 33,33% bao gồm : Tập đoàn BP (Anh Quốc), Công ty SembCorp Utilities (Singapore) và tổ hợp nhà thầu Kyushu Electric Poew Co., Inc và Nissho Iwai (Nhật).
Nhà máy điện Phú Mỹ 3 được lắp đặt với công nghệ hiện đại bao gồm 2 tuốc bin khí, 2 hệ thống thu hồi nhiệt và sản xuất hơi nước và một tuốc bin hơi do Công ty Siemens AG xây dựng cung cấp một nguồn điện sạch và hiệu quả. Nhà máy sử dụng khí từ dự án khí Nam Côn Sơn theo hợp đồng mua bán khí kéo dài 20 năm với Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, công suất sử dụng khoảng 3 triệu m3 khí/ngày.
Sau khi quá trình vận hành 20 năm kết thúc, dự án sẽ được chuyển giao cho phía Việt Nam . EVN sẽ mua toàn bộ sản lượng điện của nhà máy theo một hợp đồng mua bán điện kéo dài 20 năm.
 



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

ô nhiễm môi trường đều thấp hơn nhiệt điện chạy than.
Khí ngoài khơi của Việt Nam được sử dụng cho các tổ hợp sử dụng khí lớn trên bờ, trong đó bên cạnh cung cấp cho một vài nhà máy sản xuất phân bón thì phần lớn tập trung cho phát điện. Các cơ sở sử dụng khí nhỏ khác trong trung hạn dự kiến sẽ không trở thành những trung tâm đủ lớn để phát triển mạng lưới cung cấp khí đáp ứng cho các nhu cầu đó như mỏ khí Tiền hải Thái bình phục vụ cho công nghiệp sản xuất gạch men. Trừ một trường hợp ngoại lệ dự kiến kết nối một tổ hợp mới tại Nhơn Trạch với tổ hợp Phú Mỹ. Các tổ hợp sử dụng khí không kết nối với nhau và do đó về căn bản phụ thuộc vào các nguồn khí khác nhau. Do đó, sự phát triển của từng tổ hợp sử dụng khí cần có thương thảo cho từng thỏa thuận riêng rẽ từ khai thác khí ngoài khơi, vận chuyển và phát triển các cơ sở phát điện.
Triển vọng cung cấp khí dự kiến tăng lên 10-12 tỉ m3 năm 2010 và ít nhất là 14 tỉ m3 năm 2015. Các mỏ khí chính bao gồm:
-   Mỏ Cửu Long. Nằm ngoài phía đông nam ngoài khơi, Việt Nam đã khai thác dầu tại mỏ này từ năm 1995. Khí đồng hành từ các mỏ dầu chính của Việt Nam được dẫn vào bờ qua hệ thống đường ống Bạch Hổ. Hiện tại, lượng khí đồng hành đang giảm dần tuy nhiên một lượng khí mới hiện đang được nghiên cứu có thể khi thác từ đây. Thêm vào đó, đã có một phát hiện đầy hứa hẹn lượng khí không đồng hành tại khu Sư Tử Trắng trong mỏ Cửu Long khá gần bờ. Phát hiện này hiện nay đang được thẩm định nếu nguồn khí đủ (trong khoảng 40 tỉ m3 trở lên), lượng khí có thể chuyển vào bờ tỉnh Bình Thuận thông qua một đường ống mới.
-   Mỏ Nam Côn Sơn. Cũng nằm ngoài khơi phía đông nam, tuy nhiên xa hơn mỏ Cửu Long. Khí từ mỏ này hiện đang cung cấp cho tổ hợp Phú Mỹ. Sản lượng khí khai thác theo hợp đồng với BP và KNOC dự kiến sẽ tăng liên tục với mức 7 tỉ m3/năm là công suất thiết kế của đường ống dẫn khí. Mặc dù công suất của hệ thống dẫn khí có thể tăng thông qua áp lực của đường ống tuy nhiên để cung cấp trên 7-8 tỉ m3/năm cần phát triển đường ống mới.
Ngoài ra còn có các mỏ: Mỏ Tây Nam , Phú Mỹ và các vùng lân cận, Cà Mau, Ô Môn, Nhơn trạch. Quy mô tối ưu của các tổ hợp nhiệt điện khí so với các nguồn điện khác ở Việt Nam hết sức nhạy cảm với giá khí kí kết. Đến lượt mình, giá khí lại nhạy cảm với tính vững chắc và quy mô khai thác của các cam kết sử dụng khí. Do vậy, việc phát triển những cam kết vững chắc, ở quy mô đủ lớn và dài hạn dường như cần thiết phải có để đạt được các giá điện cạnh tranh từ các nhà máy nhiệt điện khí.
Việc EVN tham gia sở hữu hầu hết các nhà máy điện là không khả thi, thậm chí khi dùng các nguồn vốn vay do khả năng vay của EVN là có giới hạn những đầu tư bên ngoài vào IPP, bên cạnh đầu tư của các công ty khai thác khí là cần thiết trong từng khu công nghiệp điện khí lớn.
Việc phát triển tổ hợp nhà máy điện  Cà Mau bao gồm đường ống dẫn khí và hai nhà máy điện do PVN  hoàn toàn chủ sở hữu cần có sự giám sát chặt chẽ từ chính phủ để đảm bảo tính hiệu quả và chi phí thấp nhất có thể. Chính phủ cho phép PVN phát triển cả chu trình khép kín từ khai thác, vận chuyển và sản xuất điện có thể có những thuận lợi về tổ chức thực hiện do nhu cầu khẩn thiết phải phát triển những nguồn điện mới nhưng điều này cũng có thể có những hạn chế lớn do không có sự cạnh tranh.
Hình thức nhiệt điện khí rõ ràng là thế mạnh của khu vực có vốn ĐTNN và cũng là hình thức nhà ĐTNN ưa thích, vì như ta đã nói ưu điểm của nhiệt điện khí là thời gian xây dựng rất nhanh, hiệu suất phát điện cao, ngoài ra hình thức này cần số vốn đầu tư rất lớn, thậm chí đầu tư khép kín từ khai thác khí, vận chuyển khí qua ống dẫn, rồi mới đến nhà máy điện khí, công nghệ  hiện đại nhằm đảm bảo giảm thiểu ô nhiễm và tăng hiệu suất, cũng như nhiệt điện than nhiệt điện khí sẽ là hình thức có nhiều nhà ĐTNN tham gia trong tương lai, tuy nhiên ở trong nước cả EVN và PVN ngày càng tích lũy thêm được kinh nghiệm và  có tiềm lực lớn hơn về vốn để sẵn sang tham gia đầu tư vào cơ cấu phát điện háp dẫn này. 
1.3.1.3.3 Phát triển nguồn thủy điện
Việt Nam đang có một kế hoạch nhằm khai thác phần lớn nguồn thủy điện tiềm năng nhất của đất nước trong thập kỷ tới. Tổng công suất của thủy điện trong năm 2004 là 4227 MW, trong đó Thủy điện Hòa Bình (1920MW) và Yali (720MW) chiếm 60% tổng công suất của thủy điện. Kế hoạch sẽ phát triển thêm các nhà máy thủy điện lớn trên Sông Đàm, phía thượng lưu của Hòa Bình bao gồm Sơn La (2400MW) và Lai Châu (1100MW). Khi hoàn thành, bậc thang gồm 3 thủy điện lớn trên Sông Đà sẽ có tổng công suất lên tới 5400MW. Bên cạnh kế hoạch phát triển đó, chương trình khai thác thủy điện của Việt Nam còn tập trung vào 30 dự án quy mô vừa (công suất từ 100-350 MW), và xem xét một số nhà máy thủy điện nhỏ khác(có công suất nhỏ hơn 30MW). Các dự án này trải dài theo lưu vực chính của hệ thống sông ở Miền Bắc, Trung và Nam . Có 14 dự án thủy điện loại vừa đang được xây dựng vào đầu năm 2005 (khởi công năm 2003 và 2004) với tổng công suất 3170MW. EVN cũng đang lên kế hoạch sẽ tiếp tục xây dựng thêm 16 nhà máy thủy điện quy mô vừa với tổng công suất 2775 MW càng sớm càng tốt.
Sơn la là dự án trọng điểm quốc gia đã khởi công xây dựng. Các tổ máy phát điện dự kiến sẽ phát điện trong giai đoạn 2012-2015. Dự án được xem như là một nguồn cung cấp điện năng quan trọng mới đồng thời cũng làm lợi cho thủy điện Hòa Bình.
Hiện nay chưa có dự án FDI nào trong cơ cấu thủy điện, nguyên ngân chính nhà ĐTNN không tham gia đầu tư mặc dù đây là một chủ thể rất có tiềm năng là vì hình thức tự chỉ định thầu từ EVN cho các công trình thủy điện, chủ đầu tư chủ yếu là các đơn vị thuộc EVN, ngoài ra  các nhà đầu tư trong nước thấy được tiềm năng to lớn trong cơ cấu phát thủy điện, biến nước thành tiền là câu nói quen thuộc của các nhà đầu tư trong nước vì vậy hầu hết các dự án đều có chủ đầu tư tuy nhiên các dự án này vốn đầu tư không quá lớn nhưng thời gian vận hành lâu dài, mức lợi nhuận hứa hẹn sẽ cao trong tương lai vì tình hình thiếu điện hiện nay, hơn nữa trong quy hoạch EVN sẽ chỉ giữ các công trình thủy điện lớn trọng điểm còn các dự án nhỏ sẽ khuyến khích các thành phần khác vào đầu tư xây dựng.
1.3.1.3.4 Nhiệt điện hạt nhân.
Theo quy hoạch nhiệt điện hạt nhân sẽ được xây dựng tại tỉnh Ninh thuận dự kiến xuất hiện lần đầu tiên vào năm 2020 và sẽ chiếm 11% sản lượng điện toàn quốc năm 2025 và 30% vào năm 2050, đây sẽ là hình thức phát điện EVN độc quyền  sở hữu, vận hành vì tính chất đặc biệt của điện hạt nhân liên quan đến môi trường và an ninh quốc gia. Vì vậy hình thức này sẽ không có các thành phần bên ngoài tham gia.
1.3.1.3.5 Các nguồn điện sạch như điện sinh học, điện gió, điện mặt trời.
Hiện nay chưa có một khảo sát nào về trữ lượng, tiềm năng của nguồn điệ...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
R Đặc điểm tiêu dùng của khách du lịch Trung Quốc và một số giải pháp thu hút khách du lịch Trung Quốc Văn hóa, Xã hội 0
R Một số kỹ năng giải bài tập toán chương II - Hình học 11 Luận văn Sư phạm 0
R Nghiên cứu giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về chất lượng thức ăn đối với một số cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi Nông Lâm Thủy sản 0
D Một số khó khăn và sai lầm thường gặp của học sinh THPT khi giải các bài toán tổ hợp, xác suất Luận văn Sư phạm 0
D Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động marketing tại Công ty TNHH TM&DV Thanh Kim Marketing 0
D Một Số Giải Pháp Nhằm Hoàn Thiện Hoạt Động Marketing Tại Công Ty TNHH Midea Consumer Electric Marketing 0
D Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Công Tác Tuyển Dụng, Đào Tạo Và Phát Triển Nguồn Nhân Lực Luận văn Kinh tế 0
D Một số giải pháp về thị trường tiêu thụ sản phẩm đóng tàu của Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống kênh phân phối tại công ty tnhh hàn việt hana Luận văn Kinh tế 0
D Phân tích tình hình tiêu thụ và một số giải pháp marketing nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm ở công ty may xuất khẩu Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top