Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP 2
1. Lợi nhuận của doanh nghiệp 2
1.1. Khái niệm về lợi nhuận 2
1.2. Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp 4
1.3. Nguồn hình thành của lợi nhuận 6
2. Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận của doanh nghiệp 13
2.1. Chỉ tiêu tuyệt đối 13
2.2. Chỉ tiêu tương đối 14
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp 17
3.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu của doanh nghiệp 17
3.2.Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí 20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN NHỰA ĐÔNG Á 24
1. Giới thiệu về Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 24
1.1. Khái quát chung về Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 24
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 25
1.3. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty 27
1.4. Tình hình sản xuất kinh doanh 32
2. Tình hình lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 44
2.1. Nguồn hình thành lợi nhuận của công ty 44
2.2. Phân tích khả năng sinh lợi của công ty 57
3. Đánh giá lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 58
3.1. Những mặt đạt được 58
3.2. Những mặt hạn chế 60
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN NHỰA ĐÔNG Á 63
1. Phương hướng phát triển của công ty giai đoạn 2010 – 2011 63
2. Các giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 64
2.1. Các giải pháp tăng doanh thu 65
2.2. Các giải pháp làm giảm chi phí 69
2.3. Các giải pháp khác 73
3. Một số kiến nghị 76
3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 76
3.2. Kiến nghị đối với Bộ, Ngành chức năng liên quan 77
3.3. Kiến nghị đối với công ty 78
KẾT LUẬN 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
LỜI MỞ ĐẦU
Mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp là lợi nhuận và tăng trưởng. Một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả là khi doanh nghiệp có lợi nhuận đi đôi cùng với sự tăng trưởng. Lợi nhuận càng cao càng thể hiện được sức mạnh, vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Không những vậy, lợi nhuận còn là nguồn tài chính quan trọng để thực hiện tái đầu tư và mở rộng sản xuất. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, khi Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế thì hơn lúc nào hết, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao lợi nhuận là vấn đề hết sức quan trọng đối với bất kì một doanh nghiệp nào. Vì vậy, nghiên cứu về lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp là điều rất cần thiết, để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận đối với doanh nghiệp, do vậy, trong quá trình nghiên cứu thực tiễn tại công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á và kết hợp với những kiến thức đã học, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á”, làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Nội dung đề tài bao gồm ba phần:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng về lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á
Chương III: Một số giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP
1. Lợi nhuận của doanh nghiệp
1.1. Khái niệm về lợi nhuận
Các quan điểm cổ điển về lợi nhuận
Khi nền kinh tế ở các nước tư bản bắt đầu phát triển thì nhiều nhà kinh tế học đã nghiên cứu và đưa ra các quan điểm khác nhau về lợi nhuận.
Adam Smith là nhà kinh tế học cổ điển đầu tiên đã nghiên cứu toàn diện về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Khi phân tích thu nhập lợi nhuận của giai cấp tư sản, ông cho rằng, sau khi tư bản được tích lũy vào trong tay cá nhân, giá trị lao động được chia thành hai bộ phận: tiền lương và lợi nhuận. Lợi nhuân là mức dư của giá trị mới do lao động sáng tạo ra trừ đi tiền lương. Ông còn cho rằng lợi nhuận là “thù lao tự nhiên” của tư bản ứng trước mà nhà tư bản đã chi trả cho sản xuất, là một trong những nguồn gốc tạo nên hàng hóa.
Tiếp tục kế thừa và phát triển học thuyết của Adam Smith, David Ricardo cũng dựa trên giá trị lao động để nghiên cứu và phân tích về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Ông cho rằng: Lợi nhuận chính là phần giá trị lao động thừa ra ngoài tiền công, lợi nhuận là phần lao động không được trả công tạo ra.
Jean Baptiste Say chịu ảnh hưởng sâu sắc của Adam Smith, đồng thời là bạn thân của David Ricardo, nhưng ông đưa ra quan điểm khác biệt với các học thuyết giá trị của hai nhà kinh tế học này. Quan điểm của ông cho rằng: hoạt động sản xuất tạo ra giá trị sử dụng, còn giá trị sử dụng lại truyền giá trị cho các vật phẩm. Mặt khác ông còn cho rằng: không những lao động tạo ra giá trị mà tư bản cũng tạo ra giá trị. Theo Jean Baptiste Say, về kinh doanh lợi nhuận thực chất là phần thưởng thích đáng cho việc mạo hiểm đầu tư tư bản, lợi nhuận chính là hình thức tiền công đặc biệt mà nhà tư bản tự trả cho mình.
Như vậy, lợi nhuận chỉ là một hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư. Dưới tác động của quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu thì giá bán của hàng hóa không phải luôn bằng giá trị của nó mà dao động xung quanh giá trị. Vì vậy, lợi nhuận không phải lúc nào cũng bằng giá trị thặng dư mà nó dao động xung quanh giá trị thặng dư ấy.
Các quan điểm hiện đại về lợi nhuận
Các nhà kinh tế học hiện đại P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus cho rằng: “lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra bằng tổng số thu về trừ đi tổng đã chi”. Một cách cụ thể hơn, các ông chỉ ra rằng: “ lợi nhuận được định nghĩa như là một khoản chênh lệch giữa tổng thu nhập của một công ty và tổng chi phí”.
Ngoài ra còn rất nhiều quan điểm hiện đại khác về lợi nhuận. Lợi nhuận, trong kinh tế học, là phần tài sản mà nhà đầu tư nhận thêm nhờ đầu tư sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao gồm cả chi phí cơ hội; là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Lợi nhuận, trong kế toán, là phần chênh lệch giữa giá bán và chi phí sản xuất.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận của doanh nghiệp chính là phần doanh thu bán hàng hóa và dịch vụ trừ đi toàn bộ chi phí sản xuất, thuế hàng hóa và các loại thuế khác.
Có rất nhiều khái niệm về lợi nhuận như vậy thì một cách phổ biến nhất, cơ bản nhất lợi nhuận của một doanh nghiệp chính là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí của doanh nghiệp đó.
1.2. Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp
Mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Điều này cho thấy rằng lợi nhuận giữ vai trò hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không điều đó phụ thuộc vào doanh nghiệp làm ăn có lãi hay không; tức lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp có tạo nên lợi nhuận hay không.
Lợi nhuận là thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có mức lợi nhuận càng cao, càng chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, và sử dụng vốn một cách hợp lý, đồng thời khẳng định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp, là nguồn vốn quan trọng để doanh nghiệp tái đầu tư và mở rộng sản xuất. Một doanh nghiệp muốn tái đầu tư và mở rộng sản xuất thì doanh nghiệp này phải có lợi nhuận và lợi nhuận này phải được tăng trưởng qua các năm. Hầu hết các doanh nghiệp sau khi chia cổ tức cho các cổ đông, thì một phần thu nhập hay lợi nhuận sẽ được giữ lại để tái đầu tư, có thể mở rộng quy mô hay để nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công nhân…nhằm mục đích tăng lợi nhuận, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh một cách đầy đủ các mặt số lượng, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, phản ánh kết quả việc sử dụng các yếu tố cơ bản sản xuất như lao động, vật tư, tài sản cố định…
Đối với người lao động
Mục đích của nhà kinh doanh là lợi nhuận, mục đích của người lao động là tiền lương. Tiền lương đối với nhà kinh doanh là chi phí, còn đối với người lao động lại là thù lao, là khoản tiền mà nhà kinh doanh bù đắp phần sức lao động đã mất đi của người làm công để tạo ra giá trị hàng hóa, và tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Người lao động nhận được tiền lương một phần là để đảm bảo nhu cầu vật chất tất yếu của cuôc sống, phần khác là để tái sản xuất sức lao động bằng cách tham gia vui chơi, giải trí.., nâng cao chất lượng về mặt tinh thần, từ đó nâng cao chất lượng làm việc.
Ngoài việc dùng để tái đầu tư, chi trả cho cổ đông, lợi nhuận còn được dùng để trích lập các quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng…Các quỹ này được trích lập nhằm mục đích khuyến khích, động viên cán bộ công nhân viên làm việc một cách nhiệt tình, sáng tạo, gắn bó với doanh nghiệp, cùng chung lưng đấu cật, cùng doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Một doanh nghiệp muốn phát triển bền vững thì lợi ích của doanh nghiệp phải được gắn với lợi ích của người lao động.
Đối với xã hội
Mỗi doanh nghiệp là một tế bào sống trong nền kinh tế. Doanh nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế xã hội phát triển. Lợi nhuận là nguồn tích lũy cơ bản để tái đầu tư và mở rộng sản xuất. Vì vậy, doanh nghiệp làm ăn càng có nhiều lợi nhuận, thì tái sản xuất mở rộng xã hội càng lớn mạnh, từ đó tạo điều kiện cho người dân có việc làm và làm giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Sau một kỳ kinh doanh thông thường là một tháng, một quý, hay một năm; các doanh nghiệp phải trích một phần lợi nhuận thu được của mình để nộp cho nhà nước, theo tỷ lệ quy định của nhà nước; phần lợi nhuận phải nộp đó là thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính vì vậy, lợi nhuận của doanh nghiệp càng cao thì doanh nghiệp phải nộp thuế càng nhiều. Phần thuế thu nhập doanh nghiệp này, nhà nước sẽ dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao phúc lợi cho xã hội…, đồng thời phần thuế phải nộp này sẽ làm giảm chênh lệch giàu cùng kiệt trong xã hội.
Lợi nhuận còn thể hiện là thước đo hiệu quả của chính sách kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Các doanh nghiệp có lợi nhuận càng cao, chứng tỏ chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước càng chặt chẽ, đúng đắn và thành công trong việc kích thích các doanh nghiệp phát triển. Ngược lại, nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, ngoài nguyên nhân từ nội bộ của doanh nghiệp thì chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước cũng tác động không nhỏ tới kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Điều này cũng chính tỏ, chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước đưa ra chưa hợp lý, chưa đúng đắn, chưa tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển. Nước có giàu, dân có mạnh hay không là phụ thuộc vào nền kinh tế có phát triển hay không. Nền kinh tế phát triển khi các doanh nghiệp phát triển. Và các doanh nghiệp phát triển khi doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có nhiều lợi nhuận. Vì vậy, lợi nhuận là mục tiêu là động lực cho doanh nghiệp, nền kinh tế và xã hội phát triển.
3.2. Kiến nghị đối với Bộ, Ngành chức năng liên quan
Kiến nghị Bộ Công Thương
Bộ Công Thương nên tạo điều kiện cho sản phẩm của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á trở thành sản phẩm hàng đầu của ngành, và sản phẩm của công ty xuất khẩu về nhựa hàng đầu trên thị trường nước ngoài.
Kiến nghị với Bộ ngành tạo điều kiện cho công ty được triển lãm, giới thiệu sản phẩm rộng rãi ra các nước trên thế giới, nhằm quảng bá thương hiệu sản phẩm nhựa trong nước nói chung và sản phẩm nhựa của Tập đoàn Nhựa Đông Á nói riêng.
Đồng thời Bộ Công Thương phải liên kết các doanh nghiệp trong ngành để thực hiện các hợp đồng lớn và lâu dài, thay vì tồn tại tới hơn 2.000 doanh nghiệp với quy mô vừa, thậm chí nhỏ lẻ như hiện nay.
Kiến nghị Bộ Công thương liên kết, hợp tác các doanh nghiệp, các công ty với nhau để đưa ngành nhựa trở thành ngành công nghiệp phụ trợ cho các ngành sản xuất khác.
Kiến nghị Hiệp hội nhựa Việt Nam
Hiệp hội không nên chỉ là cầu nối giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý, Chính phủ mà phải kết nối sự liên kết các doanh nghiệp nhựa với nhau. Trong giai đoạn khó khăn như hiện nay, hiệp hội nhựa nhanh chóng thành lập một quỹ đầu tư làm hạt nhân kết nối các doanh nghiệp nhựa. Quỹ đầu tư này không nên huy động vốn để cho vay hay đầu tư trái ngành như kiểu các tập đoàn thường làm mà phải lấy số vốn phục vụ lợi ích chung của ngành nhựa hay thay mặt hiệp hội thực hiện những công việc mà nếu chỉ có một doanh nghiệp thì không thể thực hiện được. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế như thế này, nếu các doanh nghiệp không có sự đoàn kết thì chính là cơ hội cho doanh nghiệp ngoại nhảy vào chiếm lĩnh thị trường.
Kiến nghị lên các bộ, ngành chức năng liên quan
Các bộ, ngành chức năng liên quan cho phép ngành nhựa được nhập khẩu phế liệu nhựa sạch để tái chế ra nguyên liệu hạt nhựa nhằm giảm giá thành hạt nhựa trong nước.
3.3. Kiến nghị đối với công ty
Công ty nên sớm ban hành quy chế tài chính dựa trên quy chế tài chính mẫu của Nhà nước và các văn bản pháp luật có liên quan, trong đó có các quy chế về quản lý, sử dụng vốn, bảo lãnh vốn vay, quy chế kiểm soát chất lượng kiểm toán…Trên cơ sở đó các đội sản xuất phải tuân theo các nguyên tắc nhất định của công ty.
Tăng cường công tác tuyển chọn và đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, phù hợp với sự đổi mới của máy móc, thiết bị công nghệ, quản lý trình độ tiên tiến. Đối với đội ngũ cán bộ quản lý, công ty nên tạo điều kiện cho tham gia các khoá đào tào ngắn hạn về quản lý hay cho đi đào tạo ở nước ngoài. Đối với đội ngũ công nhân, nên hướng dẫn họ vận hành máy móc một cách hợp lý và hiệu quả. Vì vậy, yếu tố con người quyết định tới mọi thành bại của của công ty, đặc biệt trong quyết định khai thác, quản lý và sử dụng an toàn các nguồn vốn huy động cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tăng đầu tư và áp dụng công nghệ mới cho các sản phẩm nhựa kỹ thuật cao trong quá trình sản xuất, để sản phẩm tạo ra ít phế thải, tiết kiệm nguyên vật liệu, các phế liệu được tái chế luôn trong quá trình sản xuất, sản phẩm làm ra không có tính độc hại trong sinh hoạt, đặc biệt là sản xuất ra các loại bao bì có thể tự hủy để bảo vệ môi trường.
Công ty cần tăng cường đầu tư vào công tác nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới. Hoạt động nghiên cứu của công ty cần được tiến hành tương đối đa dạng, bao gồm:
- Nghiên cứu cải tiến quy trình hoạt động, từ khâu sơ chế nguyên vật liệu, định hình đến lắp đặt, tiêu thụ sản phẩm
- Nghiên cứu cải tiến kiểu dáng, chất lượng sản phẩm
- Tìm tòi, học hỏi, ứng dụng những kỹ thuật công nghệ hiện đại vào quy trình sản xuất
Cùng với việc đầu tư đổi mới công nghệ, công ty cần tìm ra các giải pháp giảm chi phí sản xuất, trong đó giảm tiêu hao năng lượng điện có ý nghĩa quan trọng và quyết định.
Ban lãnh đạo cần có chính sách hỗ trợ và liên kết các công ty con trong tập đoàn để cùng Tập đoàn ngày càng phát triển lớn mạnh .
KẾT LUẬN
Lợi nhuận và tăng trưởng là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp hiện nay. Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận là nguồn vốn quan trọng để tái đầu tư mở rộng sản xuất. Mặt khác, lợi nhuận còn là đòn bẩy kinh tế quan trọng có tác dụng kích thích người lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, muốn phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần nâng cao lợi nhuận.
Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á là công ty hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nhựa phục vụ cho xây dựng, và trang trí nội thất. Tuy còn non trẻ, nhưng Nhựa Đông Á đã khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường. Trong những năm qua công ty đã đạt được những thành tích xuất sắc, lợi nhuận của công ty được nâng cao, thị trường được mở rộng. Có được thành tích như vậy là nhờ sự cố gắng và nỗ lực của ban lãnh đạo cũng như của cán bộ công nhân viên toàn Tập đoàn.
Việc nâng cao lợi nhuận của công ty đã đạt được những thành tích tốt, tuy nhiên, công ty vẫn còn những mặt hạn chế nhất định trong quản lý tài chính của mình.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP 2
1. Lợi nhuận của doanh nghiệp 2
1.1. Khái niệm về lợi nhuận 2
1.2. Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp 4
1.3. Nguồn hình thành của lợi nhuận 6
2. Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận của doanh nghiệp 13
2.1. Chỉ tiêu tuyệt đối 13
2.2. Chỉ tiêu tương đối 14
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp 17
3.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu của doanh nghiệp 17
3.2.Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí 20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN NHỰA ĐÔNG Á 24
1. Giới thiệu về Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 24
1.1. Khái quát chung về Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 24
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 25
1.3. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty 27
1.4. Tình hình sản xuất kinh doanh 32
2. Tình hình lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 44
2.1. Nguồn hình thành lợi nhuận của công ty 44
2.2. Phân tích khả năng sinh lợi của công ty 57
3. Đánh giá lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 58
3.1. Những mặt đạt được 58
3.2. Những mặt hạn chế 60
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN NHỰA ĐÔNG Á 63
1. Phương hướng phát triển của công ty giai đoạn 2010 – 2011 63
2. Các giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 64
2.1. Các giải pháp tăng doanh thu 65
2.2. Các giải pháp làm giảm chi phí 69
2.3. Các giải pháp khác 73
3. Một số kiến nghị 76
3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 76
3.2. Kiến nghị đối với Bộ, Ngành chức năng liên quan 77
3.3. Kiến nghị đối với công ty 78
KẾT LUẬN 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
LỜI MỞ ĐẦU
Mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp là lợi nhuận và tăng trưởng. Một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả là khi doanh nghiệp có lợi nhuận đi đôi cùng với sự tăng trưởng. Lợi nhuận càng cao càng thể hiện được sức mạnh, vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Không những vậy, lợi nhuận còn là nguồn tài chính quan trọng để thực hiện tái đầu tư và mở rộng sản xuất. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, khi Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế thì hơn lúc nào hết, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao lợi nhuận là vấn đề hết sức quan trọng đối với bất kì một doanh nghiệp nào. Vì vậy, nghiên cứu về lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp là điều rất cần thiết, để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận đối với doanh nghiệp, do vậy, trong quá trình nghiên cứu thực tiễn tại công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á và kết hợp với những kiến thức đã học, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á”, làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Nội dung đề tài bao gồm ba phần:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng về lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á
Chương III: Một số giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP
1. Lợi nhuận của doanh nghiệp
1.1. Khái niệm về lợi nhuận
Các quan điểm cổ điển về lợi nhuận
Khi nền kinh tế ở các nước tư bản bắt đầu phát triển thì nhiều nhà kinh tế học đã nghiên cứu và đưa ra các quan điểm khác nhau về lợi nhuận.
Adam Smith là nhà kinh tế học cổ điển đầu tiên đã nghiên cứu toàn diện về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Khi phân tích thu nhập lợi nhuận của giai cấp tư sản, ông cho rằng, sau khi tư bản được tích lũy vào trong tay cá nhân, giá trị lao động được chia thành hai bộ phận: tiền lương và lợi nhuận. Lợi nhuân là mức dư của giá trị mới do lao động sáng tạo ra trừ đi tiền lương. Ông còn cho rằng lợi nhuận là “thù lao tự nhiên” của tư bản ứng trước mà nhà tư bản đã chi trả cho sản xuất, là một trong những nguồn gốc tạo nên hàng hóa.
Tiếp tục kế thừa và phát triển học thuyết của Adam Smith, David Ricardo cũng dựa trên giá trị lao động để nghiên cứu và phân tích về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Ông cho rằng: Lợi nhuận chính là phần giá trị lao động thừa ra ngoài tiền công, lợi nhuận là phần lao động không được trả công tạo ra.
Jean Baptiste Say chịu ảnh hưởng sâu sắc của Adam Smith, đồng thời là bạn thân của David Ricardo, nhưng ông đưa ra quan điểm khác biệt với các học thuyết giá trị của hai nhà kinh tế học này. Quan điểm của ông cho rằng: hoạt động sản xuất tạo ra giá trị sử dụng, còn giá trị sử dụng lại truyền giá trị cho các vật phẩm. Mặt khác ông còn cho rằng: không những lao động tạo ra giá trị mà tư bản cũng tạo ra giá trị. Theo Jean Baptiste Say, về kinh doanh lợi nhuận thực chất là phần thưởng thích đáng cho việc mạo hiểm đầu tư tư bản, lợi nhuận chính là hình thức tiền công đặc biệt mà nhà tư bản tự trả cho mình.
Như vậy, lợi nhuận chỉ là một hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư. Dưới tác động của quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu thì giá bán của hàng hóa không phải luôn bằng giá trị của nó mà dao động xung quanh giá trị. Vì vậy, lợi nhuận không phải lúc nào cũng bằng giá trị thặng dư mà nó dao động xung quanh giá trị thặng dư ấy.
Các quan điểm hiện đại về lợi nhuận
Các nhà kinh tế học hiện đại P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus cho rằng: “lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra bằng tổng số thu về trừ đi tổng đã chi”. Một cách cụ thể hơn, các ông chỉ ra rằng: “ lợi nhuận được định nghĩa như là một khoản chênh lệch giữa tổng thu nhập của một công ty và tổng chi phí”.
Ngoài ra còn rất nhiều quan điểm hiện đại khác về lợi nhuận. Lợi nhuận, trong kinh tế học, là phần tài sản mà nhà đầu tư nhận thêm nhờ đầu tư sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao gồm cả chi phí cơ hội; là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Lợi nhuận, trong kế toán, là phần chênh lệch giữa giá bán và chi phí sản xuất.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận của doanh nghiệp chính là phần doanh thu bán hàng hóa và dịch vụ trừ đi toàn bộ chi phí sản xuất, thuế hàng hóa và các loại thuế khác.
Có rất nhiều khái niệm về lợi nhuận như vậy thì một cách phổ biến nhất, cơ bản nhất lợi nhuận của một doanh nghiệp chính là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí của doanh nghiệp đó.
1.2. Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp
Mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Điều này cho thấy rằng lợi nhuận giữ vai trò hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không điều đó phụ thuộc vào doanh nghiệp làm ăn có lãi hay không; tức lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp có tạo nên lợi nhuận hay không.
Lợi nhuận là thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có mức lợi nhuận càng cao, càng chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, và sử dụng vốn một cách hợp lý, đồng thời khẳng định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp, là nguồn vốn quan trọng để doanh nghiệp tái đầu tư và mở rộng sản xuất. Một doanh nghiệp muốn tái đầu tư và mở rộng sản xuất thì doanh nghiệp này phải có lợi nhuận và lợi nhuận này phải được tăng trưởng qua các năm. Hầu hết các doanh nghiệp sau khi chia cổ tức cho các cổ đông, thì một phần thu nhập hay lợi nhuận sẽ được giữ lại để tái đầu tư, có thể mở rộng quy mô hay để nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công nhân…nhằm mục đích tăng lợi nhuận, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh một cách đầy đủ các mặt số lượng, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, phản ánh kết quả việc sử dụng các yếu tố cơ bản sản xuất như lao động, vật tư, tài sản cố định…
Đối với người lao động
Mục đích của nhà kinh doanh là lợi nhuận, mục đích của người lao động là tiền lương. Tiền lương đối với nhà kinh doanh là chi phí, còn đối với người lao động lại là thù lao, là khoản tiền mà nhà kinh doanh bù đắp phần sức lao động đã mất đi của người làm công để tạo ra giá trị hàng hóa, và tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Người lao động nhận được tiền lương một phần là để đảm bảo nhu cầu vật chất tất yếu của cuôc sống, phần khác là để tái sản xuất sức lao động bằng cách tham gia vui chơi, giải trí.., nâng cao chất lượng về mặt tinh thần, từ đó nâng cao chất lượng làm việc.
Ngoài việc dùng để tái đầu tư, chi trả cho cổ đông, lợi nhuận còn được dùng để trích lập các quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng…Các quỹ này được trích lập nhằm mục đích khuyến khích, động viên cán bộ công nhân viên làm việc một cách nhiệt tình, sáng tạo, gắn bó với doanh nghiệp, cùng chung lưng đấu cật, cùng doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Một doanh nghiệp muốn phát triển bền vững thì lợi ích của doanh nghiệp phải được gắn với lợi ích của người lao động.
Đối với xã hội
Mỗi doanh nghiệp là một tế bào sống trong nền kinh tế. Doanh nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế xã hội phát triển. Lợi nhuận là nguồn tích lũy cơ bản để tái đầu tư và mở rộng sản xuất. Vì vậy, doanh nghiệp làm ăn càng có nhiều lợi nhuận, thì tái sản xuất mở rộng xã hội càng lớn mạnh, từ đó tạo điều kiện cho người dân có việc làm và làm giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Sau một kỳ kinh doanh thông thường là một tháng, một quý, hay một năm; các doanh nghiệp phải trích một phần lợi nhuận thu được của mình để nộp cho nhà nước, theo tỷ lệ quy định của nhà nước; phần lợi nhuận phải nộp đó là thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính vì vậy, lợi nhuận của doanh nghiệp càng cao thì doanh nghiệp phải nộp thuế càng nhiều. Phần thuế thu nhập doanh nghiệp này, nhà nước sẽ dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao phúc lợi cho xã hội…, đồng thời phần thuế phải nộp này sẽ làm giảm chênh lệch giàu cùng kiệt trong xã hội.
Lợi nhuận còn thể hiện là thước đo hiệu quả của chính sách kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Các doanh nghiệp có lợi nhuận càng cao, chứng tỏ chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước càng chặt chẽ, đúng đắn và thành công trong việc kích thích các doanh nghiệp phát triển. Ngược lại, nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, ngoài nguyên nhân từ nội bộ của doanh nghiệp thì chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước cũng tác động không nhỏ tới kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Điều này cũng chính tỏ, chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước đưa ra chưa hợp lý, chưa đúng đắn, chưa tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển. Nước có giàu, dân có mạnh hay không là phụ thuộc vào nền kinh tế có phát triển hay không. Nền kinh tế phát triển khi các doanh nghiệp phát triển. Và các doanh nghiệp phát triển khi doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có nhiều lợi nhuận. Vì vậy, lợi nhuận là mục tiêu là động lực cho doanh nghiệp, nền kinh tế và xã hội phát triển.
3.2. Kiến nghị đối với Bộ, Ngành chức năng liên quan
Kiến nghị Bộ Công Thương
Bộ Công Thương nên tạo điều kiện cho sản phẩm của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á trở thành sản phẩm hàng đầu của ngành, và sản phẩm của công ty xuất khẩu về nhựa hàng đầu trên thị trường nước ngoài.
Kiến nghị với Bộ ngành tạo điều kiện cho công ty được triển lãm, giới thiệu sản phẩm rộng rãi ra các nước trên thế giới, nhằm quảng bá thương hiệu sản phẩm nhựa trong nước nói chung và sản phẩm nhựa của Tập đoàn Nhựa Đông Á nói riêng.
Đồng thời Bộ Công Thương phải liên kết các doanh nghiệp trong ngành để thực hiện các hợp đồng lớn và lâu dài, thay vì tồn tại tới hơn 2.000 doanh nghiệp với quy mô vừa, thậm chí nhỏ lẻ như hiện nay.
Kiến nghị Bộ Công thương liên kết, hợp tác các doanh nghiệp, các công ty với nhau để đưa ngành nhựa trở thành ngành công nghiệp phụ trợ cho các ngành sản xuất khác.
Kiến nghị Hiệp hội nhựa Việt Nam
Hiệp hội không nên chỉ là cầu nối giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý, Chính phủ mà phải kết nối sự liên kết các doanh nghiệp nhựa với nhau. Trong giai đoạn khó khăn như hiện nay, hiệp hội nhựa nhanh chóng thành lập một quỹ đầu tư làm hạt nhân kết nối các doanh nghiệp nhựa. Quỹ đầu tư này không nên huy động vốn để cho vay hay đầu tư trái ngành như kiểu các tập đoàn thường làm mà phải lấy số vốn phục vụ lợi ích chung của ngành nhựa hay thay mặt hiệp hội thực hiện những công việc mà nếu chỉ có một doanh nghiệp thì không thể thực hiện được. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế như thế này, nếu các doanh nghiệp không có sự đoàn kết thì chính là cơ hội cho doanh nghiệp ngoại nhảy vào chiếm lĩnh thị trường.
Kiến nghị lên các bộ, ngành chức năng liên quan
Các bộ, ngành chức năng liên quan cho phép ngành nhựa được nhập khẩu phế liệu nhựa sạch để tái chế ra nguyên liệu hạt nhựa nhằm giảm giá thành hạt nhựa trong nước.
3.3. Kiến nghị đối với công ty
Công ty nên sớm ban hành quy chế tài chính dựa trên quy chế tài chính mẫu của Nhà nước và các văn bản pháp luật có liên quan, trong đó có các quy chế về quản lý, sử dụng vốn, bảo lãnh vốn vay, quy chế kiểm soát chất lượng kiểm toán…Trên cơ sở đó các đội sản xuất phải tuân theo các nguyên tắc nhất định của công ty.
Tăng cường công tác tuyển chọn và đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, phù hợp với sự đổi mới của máy móc, thiết bị công nghệ, quản lý trình độ tiên tiến. Đối với đội ngũ cán bộ quản lý, công ty nên tạo điều kiện cho tham gia các khoá đào tào ngắn hạn về quản lý hay cho đi đào tạo ở nước ngoài. Đối với đội ngũ công nhân, nên hướng dẫn họ vận hành máy móc một cách hợp lý và hiệu quả. Vì vậy, yếu tố con người quyết định tới mọi thành bại của của công ty, đặc biệt trong quyết định khai thác, quản lý và sử dụng an toàn các nguồn vốn huy động cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tăng đầu tư và áp dụng công nghệ mới cho các sản phẩm nhựa kỹ thuật cao trong quá trình sản xuất, để sản phẩm tạo ra ít phế thải, tiết kiệm nguyên vật liệu, các phế liệu được tái chế luôn trong quá trình sản xuất, sản phẩm làm ra không có tính độc hại trong sinh hoạt, đặc biệt là sản xuất ra các loại bao bì có thể tự hủy để bảo vệ môi trường.
Công ty cần tăng cường đầu tư vào công tác nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới. Hoạt động nghiên cứu của công ty cần được tiến hành tương đối đa dạng, bao gồm:
- Nghiên cứu cải tiến quy trình hoạt động, từ khâu sơ chế nguyên vật liệu, định hình đến lắp đặt, tiêu thụ sản phẩm
- Nghiên cứu cải tiến kiểu dáng, chất lượng sản phẩm
- Tìm tòi, học hỏi, ứng dụng những kỹ thuật công nghệ hiện đại vào quy trình sản xuất
Cùng với việc đầu tư đổi mới công nghệ, công ty cần tìm ra các giải pháp giảm chi phí sản xuất, trong đó giảm tiêu hao năng lượng điện có ý nghĩa quan trọng và quyết định.
Ban lãnh đạo cần có chính sách hỗ trợ và liên kết các công ty con trong tập đoàn để cùng Tập đoàn ngày càng phát triển lớn mạnh .
KẾT LUẬN
Lợi nhuận và tăng trưởng là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp hiện nay. Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận là nguồn vốn quan trọng để tái đầu tư mở rộng sản xuất. Mặt khác, lợi nhuận còn là đòn bẩy kinh tế quan trọng có tác dụng kích thích người lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, muốn phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần nâng cao lợi nhuận.
Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á là công ty hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nhựa phục vụ cho xây dựng, và trang trí nội thất. Tuy còn non trẻ, nhưng Nhựa Đông Á đã khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường. Trong những năm qua công ty đã đạt được những thành tích xuất sắc, lợi nhuận của công ty được nâng cao, thị trường được mở rộng. Có được thành tích như vậy là nhờ sự cố gắng và nỗ lực của ban lãnh đạo cũng như của cán bộ công nhân viên toàn Tập đoàn.
Việc nâng cao lợi nhuận của công ty đã đạt được những thành tích tốt, tuy nhiên, công ty vẫn còn những mặt hạn chế nhất định trong quản lý tài chính của mình.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: