Garmann

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP 2
1. Lợi nhuận của doanh nghiệp 2
1.1. Khái niệm về lợi nhuận 2
1.2. Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp 4
1.3. Nguồn hình thành của lợi nhuận 6
2. Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận của doanh nghiệp 13
2.1. Chỉ tiêu tuyệt đối 13
2.2. Chỉ tiêu tương đối 14
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp 17
3.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu của doanh nghiệp 17
3.2.Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí 20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN NHỰA ĐÔNG Á 24
1. Giới thiệu về Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 24
1.1. Khái quát chung về Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 24
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 25
1.3. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty 27
1.4. Tình hình sản xuất kinh doanh 32
2. Tình hình lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 44
2.1. Nguồn hình thành lợi nhuận của công ty 44
2.2. Phân tích khả năng sinh lợi của công ty 57
3. Đánh giá lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 58
3.1. Những mặt đạt được 58
3.2. Những mặt hạn chế 60
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN NHỰA ĐÔNG Á 63
1. Phương hướng phát triển của công ty giai đoạn 2010 – 2011 63
2. Các giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 64
2.1. Các giải pháp tăng doanh thu 65
2.2. Các giải pháp làm giảm chi phí 69
2.3. Các giải pháp khác 73
3. Một số kiến nghị 76
3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 76
3.2. Kiến nghị đối với Bộ, Ngành chức năng liên quan 77
3.3. Kiến nghị đối với công ty 78
KẾT LUẬN 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87

LỜI MỞ ĐẦU
Mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp là lợi nhuận và tăng trưởng. Một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả là khi doanh nghiệp có lợi nhuận đi đôi cùng với sự tăng trưởng. Lợi nhuận càng cao càng thể hiện được sức mạnh, vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Không những vậy, lợi nhuận còn là nguồn tài chính quan trọng để thực hiện tái đầu tư và mở rộng sản xuất. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, khi Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế thì hơn lúc nào hết, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao lợi nhuận là vấn đề hết sức quan trọng đối với bất kì một doanh nghiệp nào. Vì vậy, nghiên cứu về lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp là điều rất cần thiết, để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận đối với doanh nghiệp, do vậy, trong quá trình nghiên cứu thực tiễn tại công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á và kết hợp với những kiến thức đã học, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á”, làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Nội dung đề tài bao gồm ba phần:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng về lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á
Chương III: Một số giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á


CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP

1. Lợi nhuận của doanh nghiệp
1.1. Khái niệm về lợi nhuận
Các quan điểm cổ điển về lợi nhuận
Khi nền kinh tế ở các nước tư bản bắt đầu phát triển thì nhiều nhà kinh tế học đã nghiên cứu và đưa ra các quan điểm khác nhau về lợi nhuận.
Adam Smith là nhà kinh tế học cổ điển đầu tiên đã nghiên cứu toàn diện về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Khi phân tích thu nhập lợi nhuận của giai cấp tư sản, ông cho rằng, sau khi tư bản được tích lũy vào trong tay cá nhân, giá trị lao động được chia thành hai bộ phận: tiền lương và lợi nhuận. Lợi nhuân là mức dư của giá trị mới do lao động sáng tạo ra trừ đi tiền lương. Ông còn cho rằng lợi nhuận là “thù lao tự nhiên” của tư bản ứng trước mà nhà tư bản đã chi trả cho sản xuất, là một trong những nguồn gốc tạo nên hàng hóa.
Tiếp tục kế thừa và phát triển học thuyết của Adam Smith, David Ricardo cũng dựa trên giá trị lao động để nghiên cứu và phân tích về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Ông cho rằng: Lợi nhuận chính là phần giá trị lao động thừa ra ngoài tiền công, lợi nhuận là phần lao động không được trả công tạo ra.
Jean Baptiste Say chịu ảnh hưởng sâu sắc của Adam Smith, đồng thời là bạn thân của David Ricardo, nhưng ông đưa ra quan điểm khác biệt với các học thuyết giá trị của hai nhà kinh tế học này. Quan điểm của ông cho rằng: hoạt động sản xuất tạo ra giá trị sử dụng, còn giá trị sử dụng lại truyền giá trị cho các vật phẩm. Mặt khác ông còn cho rằng: không những lao động tạo ra giá trị mà tư bản cũng tạo ra giá trị. Theo Jean Baptiste Say, về kinh doanh lợi nhuận thực chất là phần thưởng thích đáng cho việc mạo hiểm đầu tư tư bản, lợi nhuận chính là hình thức tiền công đặc biệt mà nhà tư bản tự trả cho mình.
Như vậy, lợi nhuận chỉ là một hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư. Dưới tác động của quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu thì giá bán của hàng hóa không phải luôn bằng giá trị của nó mà dao động xung quanh giá trị. Vì vậy, lợi nhuận không phải lúc nào cũng bằng giá trị thặng dư mà nó dao động xung quanh giá trị thặng dư ấy.
Các quan điểm hiện đại về lợi nhuận
Các nhà kinh tế học hiện đại P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus cho rằng: “lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra bằng tổng số thu về trừ đi tổng đã chi”. Một cách cụ thể hơn, các ông chỉ ra rằng: “ lợi nhuận được định nghĩa như là một khoản chênh lệch giữa tổng thu nhập của một công ty và tổng chi phí”.
Ngoài ra còn rất nhiều quan điểm hiện đại khác về lợi nhuận. Lợi nhuận, trong kinh tế học, là phần tài sản mà nhà đầu tư nhận thêm nhờ đầu tư sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao gồm cả chi phí cơ hội; là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Lợi nhuận, trong kế toán, là phần chênh lệch giữa giá bán và chi phí sản xuất.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận của doanh nghiệp chính là phần doanh thu bán hàng hóa và dịch vụ trừ đi toàn bộ chi phí sản xuất, thuế hàng hóa và các loại thuế khác.
Có rất nhiều khái niệm về lợi nhuận như vậy thì một cách phổ biến nhất, cơ bản nhất lợi nhuận của một doanh nghiệp chính là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí của doanh nghiệp đó.
1.2. Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp
Mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Điều này cho thấy rằng lợi nhuận giữ vai trò hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không điều đó phụ thuộc vào doanh nghiệp làm ăn có lãi hay không; tức lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp có tạo nên lợi nhuận hay không.
Lợi nhuận là thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có mức lợi nhuận càng cao, càng chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, và sử dụng vốn một cách hợp lý, đồng thời khẳng định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp, là nguồn vốn quan trọng để doanh nghiệp tái đầu tư và mở rộng sản xuất. Một doanh nghiệp muốn tái đầu tư và mở rộng sản xuất thì doanh nghiệp này phải có lợi nhuận và lợi nhuận này phải được tăng trưởng qua các năm. Hầu hết các doanh nghiệp sau khi chia cổ tức cho các cổ đông, thì một phần thu nhập hay lợi nhuận sẽ được giữ lại để tái đầu tư, có thể mở rộng quy mô hay để nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công nhân…nhằm mục đích tăng lợi nhuận, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh một cách đầy đủ các mặt số lượng, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, phản ánh kết quả việc sử dụng các yếu tố cơ bản sản xuất như lao động, vật tư, tài sản cố định…


Đối với người lao động
Mục đích của nhà kinh doanh là lợi nhuận, mục đích của người lao động là tiền lương. Tiền lương đối với nhà kinh doanh là chi phí, còn đối với người lao động lại là thù lao, là khoản tiền mà nhà kinh doanh bù đắp phần sức lao động đã mất đi của người làm công để tạo ra giá trị hàng hóa, và tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Người lao động nhận được tiền lương một phần là để đảm bảo nhu cầu vật chất tất yếu của cuôc sống, phần khác là để tái sản xuất sức lao động bằng cách tham gia vui chơi, giải trí.., nâng cao chất lượng về mặt tinh thần, từ đó nâng cao chất lượng làm việc.
Ngoài việc dùng để tái đầu tư, chi trả cho cổ đông, lợi nhuận còn được dùng để trích lập các quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng…Các quỹ này được trích lập nhằm mục đích khuyến khích, động viên cán bộ công nhân viên làm việc một cách nhiệt tình, sáng tạo, gắn bó với doanh nghiệp, cùng chung lưng đấu cật, cùng doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Một doanh nghiệp muốn phát triển bền vững thì lợi ích của doanh nghiệp phải được gắn với lợi ích của người lao động.
Đối với xã hội
Mỗi doanh nghiệp là một tế bào sống trong nền kinh tế. Doanh nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế xã hội phát triển. Lợi nhuận là nguồn tích lũy cơ bản để tái đầu tư và mở rộng sản xuất. Vì vậy, doanh nghiệp làm ăn càng có nhiều lợi nhuận, thì tái sản xuất mở rộng xã hội càng lớn mạnh, từ đó tạo điều kiện cho người dân có việc làm và làm giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Sau một kỳ kinh doanh thông thường là một tháng, một quý, hay một năm; các doanh nghiệp phải trích một phần lợi nhuận thu được của mình để nộp cho nhà nước, theo tỷ lệ quy định của nhà nước; phần lợi nhuận phải nộp đó là thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính vì vậy, lợi nhuận của doanh nghiệp càng cao thì doanh nghiệp phải nộp thuế càng nhiều. Phần thuế thu nhập doanh nghiệp này, nhà nước sẽ dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao phúc lợi cho xã hội…, đồng thời phần thuế phải nộp này sẽ làm giảm chênh lệch giàu cùng kiệt trong xã hội.
Lợi nhuận còn thể hiện là thước đo hiệu quả của chính sách kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Các doanh nghiệp có lợi nhuận càng cao, chứng tỏ chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước càng chặt chẽ, đúng đắn và thành công trong việc kích thích các doanh nghiệp phát triển. Ngược lại, nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, ngoài nguyên nhân từ nội bộ của doanh nghiệp thì chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước cũng tác động không nhỏ tới kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Điều này cũng chính tỏ, chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước đưa ra chưa hợp lý, chưa đúng đắn, chưa tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển. Nước có giàu, dân có mạnh hay không là phụ thuộc vào nền kinh tế có phát triển hay không. Nền kinh tế phát triển khi các doanh nghiệp phát triển. Và các doanh nghiệp phát triển khi doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có nhiều lợi nhuận. Vì vậy, lợi nhuận là mục tiêu là động lực cho doanh nghiệp, nền kinh tế và xã hội phát triển.
3.2. Kiến nghị đối với Bộ, Ngành chức năng liên quan
Kiến nghị Bộ Công Thương
Bộ Công Thương nên tạo điều kiện cho sản phẩm của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á trở thành sản phẩm hàng đầu của ngành, và sản phẩm của công ty xuất khẩu về nhựa hàng đầu trên thị trường nước ngoài.
Kiến nghị với Bộ ngành tạo điều kiện cho công ty được triển lãm, giới thiệu sản phẩm rộng rãi ra các nước trên thế giới, nhằm quảng bá thương hiệu sản phẩm nhựa trong nước nói chung và sản phẩm nhựa của Tập đoàn Nhựa Đông Á nói riêng.
Đồng thời Bộ Công Thương phải liên kết các doanh nghiệp trong ngành để thực hiện các hợp đồng lớn và lâu dài, thay vì tồn tại tới hơn 2.000 doanh nghiệp với quy mô vừa, thậm chí nhỏ lẻ như hiện nay.
Kiến nghị Bộ Công thương liên kết, hợp tác các doanh nghiệp, các công ty với nhau để đưa ngành nhựa trở thành ngành công nghiệp phụ trợ cho các ngành sản xuất khác.
Kiến nghị Hiệp hội nhựa Việt Nam
Hiệp hội không nên chỉ là cầu nối giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý, Chính phủ mà phải kết nối sự liên kết các doanh nghiệp nhựa với nhau. Trong giai đoạn khó khăn như hiện nay, hiệp hội nhựa nhanh chóng thành lập một quỹ đầu tư làm hạt nhân kết nối các doanh nghiệp nhựa. Quỹ đầu tư này không nên huy động vốn để cho vay hay đầu tư trái ngành như kiểu các tập đoàn thường làm mà phải lấy số vốn phục vụ lợi ích chung của ngành nhựa hay thay mặt hiệp hội thực hiện những công việc mà nếu chỉ có một doanh nghiệp thì không thể thực hiện được. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế như thế này, nếu các doanh nghiệp không có sự đoàn kết thì chính là cơ hội cho doanh nghiệp ngoại nhảy vào chiếm lĩnh thị trường.
Kiến nghị lên các bộ, ngành chức năng liên quan
Các bộ, ngành chức năng liên quan cho phép ngành nhựa được nhập khẩu phế liệu nhựa sạch để tái chế ra nguyên liệu hạt nhựa nhằm giảm giá thành hạt nhựa trong nước.
3.3. Kiến nghị đối với công ty
Công ty nên sớm ban hành quy chế tài chính dựa trên quy chế tài chính mẫu của Nhà nước và các văn bản pháp luật có liên quan, trong đó có các quy chế về quản lý, sử dụng vốn, bảo lãnh vốn vay, quy chế kiểm soát chất lượng kiểm toán…Trên cơ sở đó các đội sản xuất phải tuân theo các nguyên tắc nhất định của công ty.
Tăng cường công tác tuyển chọn và đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, phù hợp với sự đổi mới của máy móc, thiết bị công nghệ, quản lý trình độ tiên tiến. Đối với đội ngũ cán bộ quản lý, công ty nên tạo điều kiện cho tham gia các khoá đào tào ngắn hạn về quản lý hay cho đi đào tạo ở nước ngoài. Đối với đội ngũ công nhân, nên hướng dẫn họ vận hành máy móc một cách hợp lý và hiệu quả. Vì vậy, yếu tố con người quyết định tới mọi thành bại của của công ty, đặc biệt trong quyết định khai thác, quản lý và sử dụng an toàn các nguồn vốn huy động cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tăng đầu tư và áp dụng công nghệ mới cho các sản phẩm nhựa kỹ thuật cao trong quá trình sản xuất, để sản phẩm tạo ra ít phế thải, tiết kiệm nguyên vật liệu, các phế liệu được tái chế luôn trong quá trình sản xuất, sản phẩm làm ra không có tính độc hại trong sinh hoạt, đặc biệt là sản xuất ra các loại bao bì có thể tự hủy để bảo vệ môi trường.
Công ty cần tăng cường đầu tư vào công tác nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới. Hoạt động nghiên cứu của công ty cần được tiến hành tương đối đa dạng, bao gồm:
- Nghiên cứu cải tiến quy trình hoạt động, từ khâu sơ chế nguyên vật liệu, định hình đến lắp đặt, tiêu thụ sản phẩm
- Nghiên cứu cải tiến kiểu dáng, chất lượng sản phẩm
- Tìm tòi, học hỏi, ứng dụng những kỹ thuật công nghệ hiện đại vào quy trình sản xuất
Cùng với việc đầu tư đổi mới công nghệ, công ty cần tìm ra các giải pháp giảm chi phí sản xuất, trong đó giảm tiêu hao năng lượng điện có ý nghĩa quan trọng và quyết định.
Ban lãnh đạo cần có chính sách hỗ trợ và liên kết các công ty con trong tập đoàn để cùng Tập đoàn ngày càng phát triển lớn mạnh .


KẾT LUẬN
Lợi nhuận và tăng trưởng là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp hiện nay. Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận là nguồn vốn quan trọng để tái đầu tư mở rộng sản xuất. Mặt khác, lợi nhuận còn là đòn bẩy kinh tế quan trọng có tác dụng kích thích người lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, muốn phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần nâng cao lợi nhuận.
Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á là công ty hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nhựa phục vụ cho xây dựng, và trang trí nội thất. Tuy còn non trẻ, nhưng Nhựa Đông Á đã khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường. Trong những năm qua công ty đã đạt được những thành tích xuất sắc, lợi nhuận của công ty được nâng cao, thị trường được mở rộng. Có được thành tích như vậy là nhờ sự cố gắng và nỗ lực của ban lãnh đạo cũng như của cán bộ công nhân viên toàn Tập đoàn.
Việc nâng cao lợi nhuận của công ty đã đạt được những thành tích tốt, tuy nhiên, công ty vẫn còn những mặt hạn chế nhất định trong quản lý tài chính của mình.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

hangnguyen17161

New Member
Download Chuyên đề Một số giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á

Download Chuyên đề Một số giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á miễn phí





MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP 2
1. Lợi nhuận của doanh nghiệp 2
1.1. Khái niệm về lợi nhuận 2
1.2. Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp 4
1.3. Nguồn hình thành của lợi nhuận 6
2. Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận của doanh nghiệp 13
2.1. Chỉ tiêu tuyệt đối 13
2.2. Chỉ tiêu tương đối 14
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp 17
3.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu của doanh nghiệp 17
3.2.Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí 20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN NHỰA ĐÔNG Á 24
1. Giới thiệu về Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 24
1.1. Khái quát chung về Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 24
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 25
1.3. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty 27
1.4. Tình hình sản xuất kinh doanh 32
2. Tình hình lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 44
2.1. Nguồn hình thành lợi nhuận của công ty 44
2.2. Phân tích khả năng sinh lợi của công ty 57
3. Đánh giá lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 58
3.1. Những mặt đạt được 58
3.2. Những mặt hạn chế 60
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN NHỰA ĐÔNG Á 63
1. Phương hướng phát triển của công ty giai đoạn 2010 – 2011 63
2. Các giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 64
2.1. Các giải pháp tăng doanh thu 65
2.2. Các giải pháp làm giảm chi phí 69
2.3. Các giải pháp khác 73
3. Một số kiến nghị 76
3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 76
3.2. Kiến nghị đối với Bộ, Ngành chức năng liên quan 77
3.3. Kiến nghị đối với công ty 78
KẾT LUẬN 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
 
 



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

.8%). Năm 2009 tổng nguồn vốn của công ty tăng 12.7% so với năm 2008. Mức độ tăng ít như vậy là do một số cổ đông đã rút vốn đầu tư, tốc độ tăng nợ ngắn hạn giảm mạnh xuống còn 19.1%, nợ dài hạn và nguồn kinh phí và quỹ khác có tăng nhưng mức độ tăng không nhiều so với tổng nguồn vốn.
Nợ phải trả năm 2008 tăng 39,871,942,048 đồng hay 96.6% so với năm 2007 là do nợ ngắn hạn tăng 176.2% trong khi đó nợ dài hạn lại giảm 17.2%. Năm 2009 so với năm 2008 nợ phải trả tăng 29,328,252,104 đồng hay 36.1% do nợ ngắn hạn tăng 12,795,090,168 đồng hay 19.1%; nợ dài hạn tăng 16,533,161,936 đồng hay 117.6%. Mức độ nợ phải trả tăng thấp là do mức độ tăng của nợ dài hạn không bằng mức độ giảm của nợ ngắn hạn.
Vốn chủ sở hữu năm 2008 so với năm 2007 tăng rất mạnh 265.8%, do các cổ đông đầu tư thêm vốn vào để xây dựng các khu công nghiệp. Năm 2009 nền kinh tế khủng hoảng khiến cho một số nhà đầu tư rút vốn nhưng mức giảm này không nhiều chỉ với 4.2%.
Nhìn chung trong ba năm vốn chủ sở hữu và nợ phải trả chênh lệch nhau không nhiều. Năm 2007 và 2009 tỷ trọng nợ phải trả trên tổng nguồn vốn lớn hơn tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn nhưng không nhiều. Điều này cho thấy khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính của công ty khá tốt. Đặc biệt trong năm 2008 các khoản nợ phải trả có thể được công ty bảo đảm bằng vốn chủ sở hữu.
Từ những phân tích trên ta có thể nhận thấy được cơ cấu nguồn vốn của công ty khá hợp lý. Công ty đã tự chủ được vốn của mình trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên nợ dài hạn năm 2009 tăng lên nhiều, như vậy lãi vay sẽ tăng, làm tăng chi phí của công ty, kéo theo lợi nhuận tăng chậm lại. Cơ cấu nguồn vốn khá hợp lý, tuy nhiên là việc sử dụng nguồn vốn để đầu tư vào tài sản vẫn còn chưa hợp lý. Khả năng thanh khoản của công ty thấp, trong khi đó đầu tư vào tài sản cố định nhiều mà không khai thác hết công suất của các tài sản này. Mặt khác, các khoản phải thu ngắn hạn chiểm tỷ trọng vẫn cao so với tổng tài sản, do vậy công ty đã bị khách hàng chiếm dụng vốn hay công tác thu nợ của công ty chưa thực sự quan tâm. Do đó, công ty cần có các biện pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính của mình.
Phân tích tình hình tài chính qua các hệ số tài chính đặc trưng
Bảng 2.4: Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực trạng tài chính của công ty
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Bền vững về tài chính
Nợ/ Tổng TS
57.3%
41.9%
50.7%
Nợ/ VCSH
134.4%
72.2%
102.6%
Quản lý khả năng thanh toán
Tỷ lệ khả năng thanh toán chung
142.2%
147.3%
107.1%
Tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh
44.9%
93.4%
72.1%
Tỷ lệ khả năng thanh toán tức thời
8.6%
5.5%
4.6%
Hiệu quả hoạt động
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
91.1%
73.0%
93.1%
Tỷ lệ lãi vay
1.4%
1.8%
3.2%
Tỷ lệ chi phí bán hàng
0.0%
2.6%
6.4%
Chỉ tiêu bền vững tài chính
Nợ/ Tổng TS
Chỉ tiêu này năm 2007 là 57.3%, điều này cho thấy trong cơ cấu tài sản của công ty thì được tài trợ bởi 57.3% là nợ, tức công ty phải phụ thuộc phần lớn vào chủ nợ. Con số này trong năm 2008 là 41.9%. Điều này cho thấy rằng công ty tài trợ cho tài sản của mình phần lớn là từ vốn chủ sở hữu, chứng tỏ công ty đã tự đảm bảo được về mặt tài chính. Năm 2009 tỷ số nợ/tổng TS là 50.7%, chỉ tiêu này cho thấy mức tài trợ cho tài sản của công ty bằng nợ nhiều hơn là bằng vốn chủ sở hữu. Mức độ chênh lệch giữa vốn chủ sở hữu và nợ trong cơ cấu nguồn vốn của công ty là không nhiều. Do vậy, công ty vẫn chủ động được nguồn tài chính của mình.
Nợ/ VCSH
Hệ số này cho biết cơ cấu nguồn tài trợ tài sản của doanh nghiệp, cứ một đồng tài sản tài trợ bằng vốn chủ sở hữu thì tương ứng với mấy đồng tài trợ bằng nợ phải trả. Năm 2007 tỷ số nợ/VCSH là 134.4%, con số này cho biết cứ một đồng tài sản tài trợ bằng vốn chủ thì tương ứng với 1.34 đồng tài trợ bằng nợ phải trả. Chỉ tiêu này trong năm 2008 giảm 62.2% xuống còn 72.2%, điều này cho thấy tài sản được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu nhiều hơn là được tài trợ bằng nợ, con số này cũng chứng tỏ một điều cơ cấu nguồn vốn của công ty đã thay đổi, vốn chủ sở hữu chiếm phần lớn; đồng thời khẳng định khả năng tự chủ của công ty tăng lên. Trong năm 2009 chỉ số này lại tăng lên là 102.6%, con số này cho thấy cơ cấu giữa nợ và vốn chủ sở hữu xấp xỉ bằng nhau, tỷ lệ nợ cao hơn vốn chủ sở hữu, điều này cho thấy khả năng tự chủ của công ty lại giảm xuống, công ty phải phụ thuộc vào chủ nợ.
Quản lý khả năng thanh toán
Tỷ lệ khả năng thanh toán chung
Khả năng thanh toán chung của công ty năm 2007 là 142.2%, năm 2008 tăng lên là 147.3%, chứng tỏ khả năng thanh toán chung của công ty đã tốt hơn. Công ty có thể đảm bảo các khoản nợ ngắn hạn của mình bằng tài sản lưu động. Năm 2009 chỉ tiêu này lại giảm xuống chỉ còn 107.1% nguyên nhân là do tài sản lưu động của công ty giảm xuống (13.5%), nợ của công ty lại tăng lên. Với con số này, chứng tỏ tài sản lưu động của công ty chỉ đủ khả năng để thanh toán cho các khoản nợ, mà không có sự dư thừa nào.
Nhìn chung trong ba năm tài chính công ty đã đủ khả năng đảm bảo các khoản nợ ngắn hạn bằng tài sản lưu động của mình, nhưng mức độ đảm bảo này chưa cao, đặc biệt trong năm 2009. Bởi lẽ, nếu các khoản nợ này đến kỳ đáo hạn thì công ty sử dụng hết tài sản lưu động để trả cho các chủ nợ, như vậy phần tài sản lưu động còn lại thì quá ít và không đủ để công ty quay vòng sản xuất kinh doanh.
Tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán nhanh của công ty năm 2007 là 44.9%, con số này cho thấy công ty chỉ có khả năng trả 44.9% nợ ngắn hạn cho các chủ nợ bằng các khoản phải thu và tiền. Năm 2008, chỉ tiêu này tăng lên là 93.4%, nguyên nhân chủ yếu là các khoản phải thu trong năm này tăng lên gấp 5.66 lần so với năm 2007, trong khi đó nợ ngắn hạn chỉ tăng gấp 1.76 lần. Điều này cho thấy trong năm 2008 công ty đã cho nợ quá nhiều (chiếm 30.5% so với tổng tài sản), công ty đã bị khách hàng chiếm dụng vốn. Năm 2009 khả năng thanh toán nhanh của công ty giảm xuống còn 72.1%, nguyên nhân là do các khoản phải thu giảm 8.5%, trong khi đó nợ ngắn hạn tăng nhẹ 19.1%. Con số này cho thấy năm 2009 công ty vẫn chưa đủ khả năng đảm bảo các khoản nợ ngắn hạn của mình bằng tiền và các khoản phải thu ngắn hạn.
Nhìn chung trong ba năm khả năng thanh toán nhanh của công ty còn thấp, khả năng đảm bảo cho các khoản nợ ngắn hạn bằng tiền và các khoản phải thu còn kém. Khi các khoản nợ đến hạn, trong đó các khoản phải thu chưa thu được thì công ty không đủ khả năng thanh toán cho các khoản nợ này. Chỉ tiêu này thấp khiến cho các ngân hàng cũng như các chủ nợ e ngại khi cho công ty vay vốn. Do đó, công ty cần đưa ra các biện pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính của mình.
Tỷ lệ khả năng thanh toán tức thời
Khả năng thanh toán tức thời của công ty trong ba năm quá thấp và ngày càng giảm dần, năm 2007 là 8.6%, năm 2008 là 5.5% và năm 2009 là 4.6%. Điều này cho thấy khi các khoản nợ đến hạn thì công ty không có tiền trong ngân qu...
hi bạn, cho mình xin file bài Một số giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á. rất Thank bạn
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
R Đặc điểm tiêu dùng của khách du lịch Trung Quốc và một số giải pháp thu hút khách du lịch Trung Quốc Văn hóa, Xã hội 0
R Một số kỹ năng giải bài tập toán chương II - Hình học 11 Luận văn Sư phạm 0
R Nghiên cứu giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về chất lượng thức ăn đối với một số cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi Nông Lâm Thủy sản 0
D Một số khó khăn và sai lầm thường gặp của học sinh THPT khi giải các bài toán tổ hợp, xác suất Luận văn Sư phạm 0
D Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động marketing tại Công ty TNHH TM&DV Thanh Kim Marketing 0
D Một Số Giải Pháp Nhằm Hoàn Thiện Hoạt Động Marketing Tại Công Ty TNHH Midea Consumer Electric Marketing 0
D Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Công Tác Tuyển Dụng, Đào Tạo Và Phát Triển Nguồn Nhân Lực Luận văn Kinh tế 0
D Một số giải pháp về thị trường tiêu thụ sản phẩm đóng tàu của Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống kênh phân phối tại công ty tnhh hàn việt hana Luận văn Kinh tế 0
D Phân tích tình hình tiêu thụ và một số giải pháp marketing nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm ở công ty may xuất khẩu Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top