Download Đề tài Một số góp ý xây dựng thông điệp quảng cáo truyền hình tại Việt Nam trên khía cạnh văn hóa

Download miễn phí Đề tài Một số góp ý xây dựng thông điệp quảng cáo truyền hình tại Việt Nam trên khía cạnh văn hóa





MỤC LỤC
PHẦN I. LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN II. NỘI DUNG 3
1. Khái quát về quảng cáo và quảng cáo truyền hình 3
1.1. Quảng cáo-một hình thức truyền thông 3
1.1.1. Lịch sử ra đời của hoạt động quảng cáo trên truyền hình 3
1.1.2. Một số khái niệm về hoạt động quảng cáo 5
1.1.3. Vị thế, chức năng của hoạt động quảng cáo 5
1.1.4. Phân biệt quảng cáo với một số hình thức truyền thông khác 6
1.2. Khía cạnh xã hội trong quảng cáo 7
1.2.1. Quảng cáo và giá trị sử dụng 7
1.2.2. Quảng cáo và sự lựa chọn của người tiêu dùng 8
1.2.3. Quảng cáo và các giá trị văn hoá 8
1.3. Quảng cáo trên truyền hình-một phương tiện quảng cáo thông dụng, một công cụ Marketing quan trọng 9
1.3.1. Chức năng của quảng cáo truyền hình 9
1.3.2. So sánh hiệu năng truyền thông của truyền hình với các phương tiện khác 11
1.3.3. Ưu điểm và hạn chế của quảng cáo truyền hình 14
2. Thực trạng của hoạt động quảng cáo trên truyền hình tại Việt Nam trên khía cạnh văn hóa. 15
2.1. Sự khai thác các giá trị văn hóa của các nhà làm quảng cáo, sự kết hợp giữa yếu tố văn hóa truyền thống và yếu tố văn hóa hiện đại. 15
2.2. Những ảnh hưởng của quảng cáo truyền hình tới nhận thức xã hội - những kiểu quảng cáo có vấn đề và thái độ của công chúng đối với quảng cáo truyền hình. 19
3. Một số vấn đề bất cập và định hướng điều chỉnh. 25
3.1. Nh÷ng bÊt cËp tõ ba phÝa: Doanh nghiÖp, Nhµ n­íc vµ c¸c ®µi truyÒn h×nh. 25
3.2. Những định hướng điều chỉnh 27
PHẦN III. KẾT LUẬN 28
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.

Tóm tắt nội dung:

. Chức năng của quảng cáo trên truyền hình
Cũng như tất cả mọi hình thức quảng cáo khác, quảng cáo trên truyền hình có bốn chức năng.
1.3.1.1. Chức năng kinh tế
Quảng cáo truyền hình cung cấp cho người xem về sự ra đời và có mặt của một mặt hàng. Trong thời đại sản xuất hàng loạt, nó thôi thúc sự tiêu thụ của khách hàng vốn chuộng sản phẩm mới. Nó khai thác những nhu cầu tiềm ẩn của người tiêu dùng, lập lại thế bình quân giữa cung và cầu, góp phần vào việc phân phối lợi tức trong xã hội. Sản phẩm được sản xuất càng nhiều thì giá cang rẻ và như vậy người mua sẽ có cơ hội mua rẻ hơn.
Nhược điểm của nó là thúc đẩy người ta ăn tiêu hoang phí, lôi cuốn con người bắt trước nhau tiêu thụ theo thời trang, khơi gợi những lối tiêu thụ kiểu bốc đồng, nghĩa là mua mà không nghĩ trước sau. Nó thường bị xem là một công cụ của chủ nghĩa tư bản chỉ để tạo ra hố thẳm giữa kẻ giàu và người nghèo.
1.3.1.2. Chức năng thương mại
Quảng cáo truyền hình thông tin với xã hội vai trò của xí nghiệp, đường lối hoạt động của nó. Quảng cáo cũng đốc thũ xí nghiệp góp phần vào phục vụ khách hàng và xây dựng xã hội. Nó khuyến khích xí nghiệp không ngừng cải tiến hoạt động của mình. Nó cũng tạo ra danh tiếng cho nhãn hiệu và nâng cao tinh thần của nhân viên.
Điểm yếu của quảng cáo trong phạm vi này là nó gây ra khoảng cách giữa các xí nghiệp, làm chi phí quảng cáo tăng vọt, làm cho các mặt hàng đoản mệnh, vừa mới ra lò đã trở thành lỗi thời vì có mặt hàng mới ngay sau đó. Có khi nó còn làm hình ảnh của xí nghiệp tệ hại đi bởi những lời quảng cáo bôi bác lẫn nhau.
1.3.1.3. Chức năng xã hội
Quảng cáo nói chung và quảng cáo truyền hình nói riêng giáo dục người tiêu dùng. Quảng cáo truyền hình mở rộng chi thức, nâng cao mức độ suy nghĩ, phán đoán của người tiêu dùng, dạy người ta cách dùng về các mặt hàng và giúp người ta quyết định mua món hàng nào. Nó vừa là tư liệu của nội dung thông tin đại chúng, vừa là lý do để người tiêu thụ bắt đầu biết quan tâm tới món hàng mình tiêu dùng. Nó khiến người ta đòi hỏi những mặt hàng ra đời phải đúng theo quy trình và yêu cầu của xã hội, giúp người ta bớt được thời giờ tìm hiểu mà vẫn biết được ngay tính chất nổi chội nhất của món hàng.
Tuy nhiên, những người chống đối cho rằng quảng cáo chỉ đưa ra những tin tức hời hợt, nhiều chữ nghĩa hơn là sự thực. Quảng cáo truyền hình lại xô đẩy con người thờ phụng tiền bạc và tôn vinh chủ nghĩa vật chất, khơi gợi lòng tham và hứng thú nhất thời, không nghĩ gì đến ý nghĩa và cố gắng của lao động.
1.3.1.4. Chức năng văn hóa
Quảng cáo truyền hình đôi khi tạo ra một nếp sống mới. Qua nó, chúng ta bắt được hướng đi của xã hội. Nó là đề tài nói chuyện bất tận của quần chúng và nhờ nó, những hoạt động văn hóa, xã hội có phương tiện vật chất để thực hiện. Nó khai thác những đòi hỏi cao cả của con người. Theo nhà kinh tế học A.H Maslow, con người sau khi đã cơm no, áo ấm, có an ninh, sức khỏe còn cần cả tình yêu, lòng tự hào về những thành đạt trong đời và có nhu cầu cống hiến cho xã hội. Dĩ nhiên, Maslow đề cập đến nhu cầu nhân bản chứ không phải nói riêng đến nhu cầu tiêu thụ. Thế nhưng, được hướng dẫn bởi những nhu cầu đó con người có thể tìm đến những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà những nhu cầu đó đòi hỏi.
Điều đó không ngăn cản việc quảng cáo tạo nên một thứ “văn hóa vật chất”, hời hợt, thiếu chất lượng nếu không nói là ích kỷ, tập chung vào cá nhân và xa rời lợi ích công, gây rối loạn và phá hoại những giá trị truyền thống tốt đẹp ngàn đời. Những ngày lễ, têt chỉ là cơ hội cho người ta chào hàng. Những ngày cho Phụ Nữ, những ngàycho tình yêu khác nào những công cụ thương mại cho các cửa tiệm bách hóa. Về phương diện văn hóa, quảng cáo nói chung và quảng cáo trên truyền hình nói riêng còn tạo gia những hình ảnh rập khuôn về người phụ nữ, về người cao tuổi... thường thường không tốt đẹp cho lắm. hình ảnh người phũ nữ chỉ như kẻ coi nhà, nấu bếp, chông con. Người già trong quảng cáo thường là những con người đau ốm, bệnh tật trong khi trên thực tế có nhiều ông lão bà lão khỏe mạnh và có cuộc sống đầy năng nổ. Quảng cáo còn bị buộc tội là “hung bạo”. để thu hut sự chú ý của quần chúng, người làm quảng cáo có luc không ngần ngại dùng những hình ảnh dữ dội và khiêu khích, nhiều khi gây xúc động mạnh, nhất là với trẻ em.
1.3.2. So sánh hiệu năng truyền thông của truyền hình với các phương tiện truyền thông khác
1.3.2.1. So sánh với ấn phẩm
Nhật báo và tạp chí là những ấn phẩm, có khả năng truyền đạt qua chữ viết và hình ảnh. Phần chính yếu của ấn phẩm vẫn là ký sự bằng văn tự, những hình ảnh tĩnh chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Truyền hình thì khác: chủ yếu là hình ảnh động. Bao nhiêu thứ như chữ viết, ngôn ngữ, âm nhạc, âm hưởng... bổ túc hiệu năng của hình ảnh. Nhờ hình ảnh, truyền hình mang đế cho người xem sự sống động, hiện thực của việc sảy ra trước mắt. Điều đó không thể tái hiện lại qua báo hay tạp chí được. Đối với quảng cáo, truyền hình như đem thương phẩm bày ra trước mắt.
Điểm khác nhau thứ hai giữa ấn phẩm và truyền hình là ấn phẩm có thể đem theo được trong xe, lên máy bay, giữ lâu trong nhà, trong thư viện, truyền tay nhau. Thông điệp truyền hình thoắt đến, thoắt đi, không giữ được mà có giữ được thì cũng khá cầu kỳ và mất nhiều công sức.
1.3.2.2. So sánh với phóng thanh
Ban đầu, phóng thanh và truyền hình vẫn đi đôi với nhau. Hai phương tiện này có nhiều điểm tương đồng như việc nghe và xem đều không phải bỏ tiền. Có thể xem truyền hình như cánh tay nối dài của phát thanh. Tuy nhiên, người ta có thể nghe Radio ở khắp mọi nơi, trong lúc lãi xe, khi đang làm cơm và ngay cả khi đang ngủ. Ngược lại, xem truyền hình dù có thể làm việc khác cùng lúc nhưng nó đòi hỏi phải có một sự tập chung tối thiểu, cho nên nhiều thông điệp nếu phát ra vào lúc người xem bận tay, thường có xu hướng chú trọng vào lời nói hơn hình ảnh. Phát thanh và truyền hình hay dùng thủ pháp “quảng cáo liên hợp”, trong đó nội dung chương trình thông tin hay giải trí nói chung và thông điệp quyện vào nhau thành một. Điều này không cho phép trường hợp ấn phẩm bởi vì trên mặt báo, quảng cáo và ký sự cần có sự tách riêng. Lý do đơn giản vì nếu một ấn phẩm dùng lối quảng cáo như vậy sẽ mất sự tín nhiệm của độc giả. Khán thính giả truyền hình dễ dàng hơn về vấn đề này, có lẽ vì trong suốt mấy ngàn năm, vai trò “văn kiện chính thức” của chữ viết đã in đậm sâu sắc vào người đọc.
Xem truyền hình hay nghe phát thanh là hành động có tính chất cá nhân lẫn tập thể, nhưng xem báo hay tạp chí là hành động có tính chất đơn lẻ, dĩ nhiên là khi hành động đơn lẻ thì người ta có sự chú ý cao hơn. Riêng lúc xem báo hay nghe truyền thanh thì chỉ có thính giác hay thị giác làm việc. Trong khi ấy, xem truyền hình phải vận dụng cả hai giác quan này nên khả năng thu nhận tín hiệu cũng tăng gấp đôi.
1.3.2.3. So sánh với diễn kịch
Truyền ...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chiến lược thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty TNHH Sản Phẩm Xây dựng BHP Thép Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Góp phần tìm hiểu một số vấn đề lịch sử cận đại Việt Nam Ebook PDF Văn hóa, Xã hội 0
D Một Số Vấn Đề Hoàn Thiện Kế Toán Hoạt Động Đầu Tư Góp Vốn Liên Doanh Trong Các Doanh Nghiệp Tại Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Một số giải pháp góp phần phát triển thương hiệu trà lipton tại thị trường việt nam đến năm 2015 Luận văn Kinh tế 0
D Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các chính sách vĩ mô về lao động - Việc làm ở Việt nam Công nghệ thông tin 2
N Một số phương hướng góp phần đẩy mạnh thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty cơ khí Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
G Một số giải pháp nhăm góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu gạo trong năm 2001 và một vài năm tới Luận văn Kinh tế 0
R Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm hàng xuất khẩu ở Công ty 20 Luận văn Kinh tế 0
G Một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu của Nhà xuất bản Thống kê Luận văn Kinh tế 0
A Một số nhận xét và ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác kế toán thành phẩm và bán hàng Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top