minhhong_286
New Member
Download miễn phí Một số vấn đề nổi lên về kinh tế và chính sách vĩ mô của Việt Nam, giải pháp trong thời gian tới
Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát là một trong những vấn đề trung
tâm của việc điều hành chính sách hiện nay, đặc biệt là trong ngắn hạn, khi cần
một sự đánh đổi rõ rệt giữa hai mục tiêu này. Những điều chỉnh mục tiêu chính
sách của chính phủ: ưu tiên chống lạm phát và giảm các mất cân đối vĩ mô vào
năm 2008, chuyển sang kích cầu để chống suy giảm và phục hồi tăng trưởng vào
năm 2009, và hiện nay có những điều chỉnh để đề phòng tái lạm phát và ngăn ngừa
các mất cân đối vĩ mô gia tăng là khá phù hợp và kịp thời. Những công cụ chính
sách mà Chính phủ thực hiện là hợp lí. Trong ngắn hạn có ba công cụ chính sách
quan trọng có tác động mạnh đến tăng trưởng và lạm phát là chính sách tiền tệ,
chính sách tài khóa và chính sách tỉ giá. Ba chính sách này có phạm vi tác động và
tốc độ truyền tải đến kết quả tăng trưởng và lạm phát tương đối khác nhau, đây
cũng chính là điều cần lưu ý khi xây dựng, thực hiện và phân tích chính sách. Sự
phối hợp và tính nhất quán của ba chính sách này cũng ảnh hưởng lớn đến kết quả
cuối cùng. Tuy nhiên cần đặc biệt lưu ý rằng sự đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm
phát chỉ áp dụng trong ngắn hạn còn trong dài hạn, hai mục tiêu này không có tính
chất loại trừ nhau
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2013-11-10-mot_so_van_de_noi_len_ve_kinh_te_va_chinh_sach_vi.y8LeOtsaag.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-44877/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NỔI LÊN VỀ KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH VĨ MÔCỦA VIỆT NAM, GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
Chu Hoàng Ngọc Bích
Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội
I. Một số vấn đề nổi lên trong 6 tháng đầu năm 2010
Trong 6 tháng đầu năm 2010, nền kinh tế VN đạt tốc độ tăng trưởng cao và
tương đối ổn định. Tốc độ tăng trưởng quý II đã tăng 6,2-6,4% so với 5,83% của
quý I và tốc độ tăng trưởng 6 tháng đầu năm đạt 6-6,1%. Trong khi đó chỉ số lạm
phát, nếu như những tháng đầu năm còn gây nhiều mối quan ngại cho nền kinh tế
thì trong các tháng gần đây đang được kiềm chế ở mức khá thấp. Tuy nhiên vẫn
còn một số bất ổn trong nền kinh tế ngắn, trung và dài hạn. Hoạt động kiểm soát
giá thông qua các biện pháp hành chính có thể gây tác hại cho tăng trưởng trong
trung và dài hạn. Thâm hụt thương mại tăng cao, đặc biệt là nhập siêu với Trung
Quốc. Thị trường vàng và bất động sản biến động khá mạnh, trong khi đó, thị
trường ngoại hối tuy ổn định, nhưng tín dụng bằng ngoại tệ đã tăng cao trong 6
tháng đầu năm. Công tác quản lý nợ công và nợ nước ngoài còn nhiều bất cập. Cơ
sở hạ tầng, nhất là hệ thống điện càng khiến các nhà đầu tư và người tiêu dùng hết
sức lo ngại về tính bền vững và ổn định của nó.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã tác động đến các ngành, lĩnh vực trong
nền kinh tế nước ta và tạo ra những điểm mạnh, yếu nhất định:
1. Xuất nhập khẩu:
Trong 6 tháng đầu năm 2010, tổng giá trị thâm hụt thương mại của Việt
Nam đã lên tới 6,7 tỷ USD, chiếm 20,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
trong cùng kỳ. Sở dĩ có tình hình này là do Việt Nam đã xuất khẩu mạnh nhóm mặt
hàng đá quý và kim loại quý ( 850 triệu USD trong tháng 5/2010 và khoảng 350
triệu USD trong tháng 6/2010). Nhìn chung, trong 6 tháng đầu năm 2010, Việt
Nam đã xuất khẩu một lượng đá quý, kim loại quý và sản phẩm trị giá 1,343 tỷ
USD. Tuy nhiên, xét trên góc độ ổn định kinh tế vĩ mô, việc tính gộp kim ngạch
xuất khẩu mạnh đá quý và kim loại quý ( chủ yếu là vàng) sẽ phần nào che lấp đi
những điểm yếu cần tập trung khắc phục trong cơ cấu xuất nhập khẩu hàng
hóa của Việt Nam.
Tác động của cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu tới nền kinh tế Việt
Nam là không lớn vì: đồng tiền của Việt Nam chưa được tự do chuyển đổi trên thị
trường tiền tệ quốc tế; các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị
trường Châu Âu chủ yếu là mặt hàng nông, lâm, thủy sản và chúng thường có mức
tiêu thụ khá ổn định; hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam vào Châu Âu chủ yếu
được thanh toán bằng ngoại tệ mạnh USD và thị trường Châu Âu cũng chỉ chiếm
tỷ trọng khoảng 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Ảnh hưởng trực tiếp của đồng EURO giảm giá tới hoạt động xuất khẩu của
Việt Nam: Mặc dù tỷ trọng cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tới thị trường
Châu Âu đã gia tăng đáng kể lên tới 24,2% trong tháng 5/2010, nhưng tỷ trọng
xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU27 lại có xu hướng suy giảm mạnh
tương ứng từ 22,2% trong tháng 1/2010 xuống còn ở mức 14,2% trong tháng
5/2010. Tuy nhiên, sự suy giảm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường
EU27 trong tháng 5/2010 đã được bù đắp phần lớn bởi sự gia tăng đột biến của
kim ngạch xuất khẩu vào thị trường một số nước Tây Âu, Đông Âu và Bắc Âu.
2. Phát triển công nghiệp, nông nghiệp:
Nền kinh tế Việt Nam đang và vẫn tiếp tục xu hướng phục hồi và duy trì đà
tăng trưởng khá nhanh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 6 tháng đầu năm ước đạt
6,0-6,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tăng trưởng khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản ước đạt 2,7-3,2%; tăng trưởng khu vực công nghiệp và xây
dựng ước đạt 6,0-6,7%; và tăng trưởng khu vực dịch vụ ước đạt 6,8-7,2%. Nếu chỉ
xét riêng trong quý II của năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ước
đạt mức 6,2-6,4%, trong đó khu vực dịch vụ được ghi nhận có mức đóng góp điểm
phần trăm lớn nhất.
3. Thu hút đầu tư :
Tính chung trong 6 tháng đầu năm 2010, Việt Nam đã có 438 dự án FDI
được đăng ký cấp mới với tổng số vốn FDI cam kết đạt trên 7,9 tỷ USD ( tăng
khoảng 43% về vốn FDI đăng ký cấp mới so với cùng kỳ năm trước đó). Đồng
thời, Việt Nam đã giải ngân vốn FDI được khoảng 5,4 tỷ USD và quy mô giải ngân
vốn FDI tính bình quân tháng đã được ghi nhận vào khoảng 900 triệu USD/tháng.
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam trong năm 2010 là
8,063.85 tỷ USD. Đây là kỷ lục mới về cam kết ODA cho Việt Nam với mức tăng
tới hơn 36% so với kỷ lục cũ năm 2009 (5,9 tỷ USD, đã bao gồm cam kết muộn
của Nhật Bản) và vượt ra ngoài dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước đó (dự
báo ODA năm 2010 chỉ tăng từ 10 - 15%). Trong số này, về phía các tổ chức phát
triển, Ngân hàng Thế giới (WB) là nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam với gần 2,5 tỷ
USD; tiếp đến là Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) với gần 1,5 tỷ USD. 15
quốc gia thuộc cộng đồng châu Âu (EU) tài trợ 1,082 tỷ USD, trong đó Pháp tiếp
tục là nhà tài trợ lớn nhất với 378,26 triệu USD. Về phía các quốc gia tài trợ trực
tiếp cho Việt Nam, Nhật Bản vẫn là quốc gia tài trợ quan trọng nhất, với 1,64 tỷ
USD; kế đến là Hàn Quốc 270 triệu USD, Mỹ 138 triệu USD...Trong số hơn 8 tỷ
USD mà các nhà tài trợ cam kết, có 1,4 tỷ USD là viện trợ không hoàn lại (trong
đó có toàn bộ phần cam kết của Australia gần 100 triệu USD, Anh hơn 82 triệu
USD, Mỹ 138 triệu USD) và khoảng 6,6 tỷ USD là nguồn vốn vay ưu đãi.
4. Tài chính-ngân hàng, chứng khoán:
Thị trường ngoại hối tương đối ổn định từ tháng 3/2010 trở lại đây. Cung
cầu ngoại tệ trên thị trường cân bằng, tính thanh khoản ở mức cao, các tổ chức tín
dụng ( TCTD) cân đối được ngoại tệ và không có nhu cầu mua ngoại tệ từ Ngân
hàng Nhà nước, nhiều TCTD tiếp tục bán ngoại tệ cho Ngân hàng nhà nước do
lượng ngoại tệ mua được tăng lên. Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại
luôn thấp hơn trần cho phép. Tỷ giá trên thị trường tự do thấp hơn tỷ giá giao dịch
của các ngân hàng thương mại. Thị trường ngoại tệ đang trong trạng thái dư cung.
Đối với thanh khoản của hoạt động huy động và cho vay ngoại tệ, chỉ tính riêng
ngoại tệ dư thừa đã được các ngân hàng thương mại thực hiện giao dịch hoán đổi
với Ngân hàng Nhà nước vào khoảng 600 triệu USD. Điều này cho thấy nguồn
ngoại tệ “ nhàn rỗi” của các NHTM tương đối dồi dào.
Trong những tháng đầu năm 2010, tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ tăng
cao trong khi tín dụng nội tệ lại tăng thấp. Cụ thể, cho vay bằng ngoại tệ tháng
5/2010 tăng 3,16% so với tháng trước và tăng trên 20% so với cuối năm 2009.
Trong khi đó cùng thời gian này tăng trưởng tín dụng bằng tiền đồng chỉ đạt 1,53%
so với tháng trước. Tuy nhiên, biến động xấu về tỷ giá ở thị trường trong nước vẫn
có thể xảy ra do mất cân đối cung cầu ngoại tệ và khả năng trượt giá của đồng Đôla
Mỹ. Điều này đòi hỏi...
Tags: mất cân đối vĩ mô là gì