rica17

Well-Known Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI
Nà Lữ (Hòa An Cao Bằng) từ thế kỷ IX đến nửa đầu thế kỷ XIX
11
đủ về quá trình thay đổi diên cách của Nà Lữ mà chỉ xác định lãnh thổ của
phƣờng Nà Lữ vào nửa đầu thế kỷ XIX thông qua tƣ liệu địa danh, địa chí, địa
bạ. Do đó, luận văn tập trung nghiên cứu Nà Lữ theo lãnh thổ đã xác định đƣợc,
bao gồm các xóm Làng Đền, Nà Lữ, Bản Giài, Nà Riềm, Khau Luông, Bó Lếch,
Bản Chạp, Bến Đò, Kế Nông thuộc xã Hoàng Tung, huyện Hòa An, tỉnh Cao
Bằng hiện nay, trong đó, Nà Lữ đƣợc coi là làng gốc. Các làng, xóm còn lại của
Hoàng Tung chỉ đƣợc nghiên cứu ở mức độ cần thiết để đối sánh và bổ sung cho
khu vực chính.
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên và xã
hội của Nà Lữ, quá trình lịch sử của vùng đất này cũng nhƣ đời sống kinh tế và
xã hội của cƣ dân Nà Lữ trong giai đoạn từ thế kỷ IX đến giữa thế kỷ XIX. Tuy
nhiên, do hạn chế về nguồn tƣ liệu, nên chúng tui chƣa thể khôi phục diện mạo
Nà Lữ một cách đầy đủ, nhất là giai đoạn trƣớc thế kỷ XVII. Vì thế, khi nghiên
cứu về đời sống kinh tế và văn hóa, chúng tui chỉ tập trung vào giai đoạn tồn tại
của phƣờng Nà Lữ từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tư liệu
Nghiên cứu về một địa phƣơng cụ thể nên chúng tui gặp rất nhiều khó khăn
trong việc tìm kiếm tài liệu, nhất là một địa phƣơng ở xa trung tâm đất nƣớc nhƣ
Nà Lữ. Một vài sự kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa của Nà Lữ đã đƣợc nhắc đến
trong các bộ sử thời phong kiến nhƣ Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử
thông giám cương mục, Đại Nam thực lục, Đại Việt thông sử, Lịch triều tạp kỷ…
Các bộ sử và ghi chép của các học giả Việt Nam đƣơng đại đã cung cấp cho
chúng tui những nét khái quát về bối cảnh kinh tế, xã hội, làm cơ sở cho việc đi
sâu khảo sát về Nà Lữ.
Trong quá trình thu thập tài liệu, chúng tui nhận thấy các sách địa lý lịch sử
nhƣ: Dư địa chí (Nguyễn Trãi), Đại Nam thống nhất chí, Đồng Khánh dư địa
chí, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (Lê Quang Định), Lịch triều hiến chương
loại chí (Phan Huy Chú)… hay các sách viết về Cao Bằng nhƣ: Cao Bằng thực
lục (Bế Hựu Cung), Cao Bằng tạp chí (Bế Huỳnh), Cao Bằng sự tích (Nguyễn
Đức Nhã), Cao Bằng thành hãm sử ký (Nguyễn Đình Tông), Cao Bằng ký lược
(Phạm An Phủ) … cũng cung cấp cho chúng tui những tƣ liệu cụ thể về tình hình

chính trị, xã hội, văn hóa ở địa phƣơng có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến
Nà Lữ. Tuy nhiên, tài liệu về Nà Lữ do những cuốn sách trên mang đến rất sơ
lƣợc.
Kết hợp với các nguồn tài liệu trên, tƣ liệu địa bạ của phƣờng Nà Lữ và 11
địa bạ khác thuộc tổng Hà Đàm đƣợc lập vào năm Gia Long 4 (1805) và Minh
Mệnh 21 (1840) cũng đƣợc chúng tui khai thác triệt để nhằm tìm hiểu rõ hơn về
tình hình sở hữu ruộng đất của địa phƣơng nửa đầu thế kỷ XIX.
Sau khi thực dân Pháp chiếm nƣớc ta, nguồn tƣ liệu ghi chép về Cao Bằng
của các viên quan đô hộ và các học giả ngƣời Pháp tăng lên nhiều, tiêu biểu nhất
là cuốn La haute région du Tonkin et officier colonial: Cercle de Cao Bang
(Vùng cao Bắc kỳ và viên chức thuộc địa: hạt Cao Bằng) của Paul Marabail.
Cuốn sách khảo khá kỹ về Cao Bằng với nhiều lĩnh vực nhƣ kinh tế, xã hội,
phong tục tập quán của các tộc ngƣời … Điều đó ít nhiều đã cung cấp những
hiểu biết cơ bản về yếu tố kinh tế, văn hóa truyền thống của Cao Bằng nói chung
và Nà Lữ nói riêng.
Mặc dù chúng tui đã cố gắng khai thác triệt để các tài liệu thƣ tịch nhƣng
vẫn chƣa đủ để nhận thức toàn diện về Nà Lữ. Để khắc phục khó khăn đó, chúng
tui tiến hành thu thập tƣ liệu từ điều tra thực địa tại Nà Lữ và các vùng lân cận.
Kết quả, nguồn tài liệu thu đƣợc rất phong phú, góp phần quan trọng trong việc
hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Chúng tui tạm thời chia thành ba loại nhƣ sau:
- Nguồn tài liệu thƣ tịch sƣu tầm đƣợc gồm văn bia, câu đối đền Vua Lê, gia
phả các dòng họ, quy định của các hội hữu ƣớc trong làng xã, sách Then …
Những tài liệu này phản ánh cụ thể tình hình kinh tế, tín ngƣỡng, phong tục tập
quán… của cƣ dân địa phƣơng.
- Nguồn tài liệu vật chất: Bao gồm các di tích nhƣ thành Nà Lữ, đền Vua
Lê, gạch ngói nhà Mạc, đạn đá thời nhà Mạc, nhà cửa, các công cụ sản xuất, …
Đây là những chứng tích vật chất còn lại giúp chúng ta nhận thức đúng đắn hơn
về Nà Lữ trong quá khứ.
- Nguồn tài liệu truyền miệng: Bao gồm các truyền thuyết dân gian, ca dao,
tục ngữ, hát ru, đồng dao, các cách giải thích địa danh của Nà Lữ … Những tƣ
liệu này tuy mang tính ƣớc lệ, thiếu độ chính xác nhƣng nếu biết so sánh, đối

Nguồn tƣ liệu khảo sát thực địa sau khi đƣợc xử lý theo phƣơng pháp khoa
học là nguồn tài quan trọng bổ sung cho tài liệu thƣ tịch, giúp chúng tui bƣớc
đầu khôi phục diện mạo của Nà Lữ trong lịch sử.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, trƣớc hết chúng tui chú ý khai thác tài liệu thƣ tịch,
kể cả những tài liệu của nhà nƣớc phong kiến và tƣ nhân còn đƣợc lƣu giữ đến
ngày nay. Nhƣng không phải lúc nào nguồn tƣ liệu gốc cũng có sẵn. Để khắc
phục sự khuyết thiếu đó, chúng tui sử dụng phƣơng pháp hồi cố, lấy kết quả từ
quá trình điều tra thực địa với mong muốn khôi phục diện mạo Nà Lữ trong giai
đoạn từ thế kỷ IX đến giữa thế kỷ XIX. Ngoài phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử,
phƣơng pháp lôgic, tác giả còn sử dụng phƣơng pháp liên ngành nhƣ văn hóa
học, văn hóa dân gian, nhân học, địa lý học … để nghiên cứu Nà Lữ một cách
tổng thể, mang tính toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa.
Đồng thời, phƣơng pháp định tính và định lƣợng cũng đƣợc tác giả sử dụng để
phân tích, xử lý địa bạ, kết hợp với phƣơng pháp thống kê, tổng hợp, so sánh, đối
chiếu với các nguồn tƣ liệu khác, các địa phƣơng khác để làm nổi bật những luận
điểm khoa học đƣa ra.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về Nà Lữ (Hòa An, Cao Bằng)
trong giai đoạn từ thế kỷ IX đến giữa thế kỷ XIX. Dựa trên nguồn tƣ liệu khai
thác đƣợc, luận văn bƣớc đầu khôi phục một cách có hệ thống về lịch sử, kinh tế,
chính trị, văn hóa cũng nhƣ những biến động về dân cƣ của vùng đất này trong
lịch sử.
Kinh đô nhà Mạc cũng nhƣ hệ thống quân sự, chính sách tích cực phát triển
kinh tế, xã hội của vƣơng triều Mạc ở Nà Lữ nói riêng và Cao Bằng nói chung
đƣợc chúng tui bƣớc đầu tái hiện. Đồng thời, chúng tui cũng cung cấp những
hiểu biết cơ bản về cuộc chiến tranh Trịnh – Mạc diễn ra ở Cao Bằng, trong đó,
Nà Lữ là một trong những chiến trƣờng ác liệt nhất.
Lần đầu tiên tài liệu địa bạ phƣờng Nà Lữ lập vào đầu triều Nguyễn đƣợc
đƣa ra phân tích, từ đó cho thấy, ruộng đất tƣ hữu ở Nà Lữ đã chiếm ƣu thế hoàn

chế khai hoang của các triều đại phong kiến. Sự phát triển kinh tế hàng hóa ở Nà
Lữ trong giai đoạn đầu thế kỷ XVII đã góp phần phá vỡ quan hệ kinh tế, chính
trị, xã hội truyền thống.
Luận văn đã bƣớc đầu công bố nguồn tƣ liệu về các dòng họ Tày gốc Kinh
ở Nà Lữ và một số địa phƣơng lân cận trong vùng Hòa An, góp phần làm sáng tỏ
hiện tƣợng “Kinh già hóa Thổ”. Đồng thời, dựa trên nguồn tƣ liệu điền dã, tác
giả đã chứng minh Nà Lữ là một trong những vùng giao thoa văn hóa Tày – Việt
đặc trƣng và điển hình nhất.
Luận văn đƣợc hoàn thành sẽ trở thành nguồn tài liệu tham khảo cho các
nhà nghiên cứu về Cao Bằng và sinh viên khi học bộ môn Lịch sử địa phƣơng,
Nhân học, Văn hóa học…
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết kuận, luận văn đƣợc chia thành 4 chƣơng:
- Chƣơng 1: Nà Lữ: Mấy nét khái quát về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và
xã hội. Chƣơng này tập trung làm rõ duyên cách và vị trí địa lý phƣờng Nà Lữ
cũng nhƣ nguồn gốc dân cƣ và quá trình tộc ngƣời diễn ra ở đây trong giai đoạn
từ thế kỷ IX đến giữa thế kỷ XIX.
- Chƣơng 2: Quá trình lịch sử. Chƣơng này làm rõ lịch sử Nà Lữ từ thời
nguyên thủy cho đến giữa thế kỷ XIX, nhằm cung cấp những hiểu biết cơ bản về
những biến động chính trị, xã hội đã xảy ra ở vùng đất này.
- Chƣơng 3: Đời sống kinh tế phường Nà Lữ. Chƣơng này tập trung phân
tích địa bạ đầu thời Nguyễn, nhằm làm rõ chế độ sở hữu ruộng đất phƣờng Nà
Lữ, đồng thời phác họa mô hình kinh tế truyền thống của phƣờng Nà Lữ.
- Chƣơng 4: Đời sống văn hóa phường Nà Lữ. Chƣơng này tập trung nghiên
cứu đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của cƣ dân địa phƣơng, từ đó làm rõ
sự giao thoa văn hóa Tày – Việt trong lịch sử.

NÀ LỮ: MẤY NÉT KHÁI QUÁT VỀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ,
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Nà Lữ là một cánh đồng cổ của Cao Bằng, đã xuất hiện trong truyền thuyết
Pú Lương Quân – câu truyện kể về cuộc sống nguyên thủy của ngƣời Tày cổ.
Trong các thƣ tịch trƣớc thế kỷ XIX, hầu nhƣ không có tƣ liệu nói về diên cách
của Nà Lữ.
Đầu thế kỷ XIX, theo tƣ liệu địa bạ, phƣờng Nà Lữ là một đơn vị hành
chính tƣơng đƣơng cấp xã, thuộc tổng Hà Đàm, châu Thạch Lâm, trấn Cao Bằng,
nay là một bộ phận của xã Hoàng Tung, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng, cách Thị
xã 10km về hƣớng Đông Nam và cách Thị trấn Nƣớc Hai 6km về hƣớng Tây
Bắc. Theo Địa bạ Gia Long 4 (1805), phƣờng Nà Lữ “Đông cận Mạnh Tuyền xã
địa phận lấy trung giang làm giới; Tây gần Phúc Tăng xã địa phận, lấy suối Hội
Tùng làm giới; Nam gần Hà Hoàng xã, lấy Pàn Chân xứ làm giới; Bắc giáp Cối
Khê xã, lấy Chiêu Bình lãnh thổ sơn làm giới” [125]. Sau cải cách hành chính
Minh Mệnh, địa giới các xã cũng có ít nhiều thay đổi. Theo địa bạ Minh Mệnh
21 (1840), phƣờng Nà Lữ “Đông cận Cầu Lâm, Vu Thuỷ xã, lấy bán giang làm
giới, lại gần Xuân Lĩnh xã, Tha Yến bán giang làm giới; Tây gần Phúc Tăng xã,
lấy bán khê Hội Tùng làm giới; Nam gần xã Hà Đàm, lấy Pàn Chân xứ làm giới,
lại gần Cối Khê xã, lấy Lãnh Chung, Chiêu Bình làm giới; Bắc giáp Thọ Cƣơng,
lấy trung hà làm giới” [126]. Nhƣ vậy, về đại thể, địa giới phƣờng Nà Lữ vẫn
đƣợc giữ nguyên. Song có lẽ ngƣời chép địa bạ Minh Mệnh 21 đã có sự nhầm
lẫn: xã Cối Khê thực chất nằm ở phía Bắc Nà Lữ, gianh giới là đèo Bình, nay là
làng Mã Quan thuộc xã Hồng Việt; xã Thọ Cƣơng chính là khu vực Đà Lạn (xã
Bế Triều) ở về phía Đông Bắc, lấy sông Bằng làm gianh giới. Đến thời Đồng
Khánh, địa giới Nà Lữ về cơ bản vẫn đƣợc giữ nguyên, nhƣng đã trở thành đơn

Đoóng Mậy, Chân Khắc Thiệu, Nà Riềm, Nà Thắng, Bản Giài, Khau Luông,
Bản Kế, Bản Nông, Hoằng Chuông, Hoằng Gioòng, Nà Đồng, Nà Nhâm, Bó
Lếch [40, tr.187]. Qua khảo sát thực tế địa phƣơng, kết hợp với tài liệu trên,
chúng tui thấy, địa vực phƣờng Nà Lữ đầu thế kỷ XIX bao gồm 9/14 xóm của xã
Hoàng Tung hiện nay là: xóm Làng Đền, Nà Lữ, Bản Giài, Nà Riềm, Khau
Luông, Bó Lếch, Bản Chạp, Bến Đò, Kế Nông. Các xóm này nằm về phía Đông
của xã, giáp sông Bằng.
Nà Lữ là cách gọi theo tiếng Việt, biến âm từ tiếng Tày cổ “Nà Lậc” mà
thành. “Nà Lậc” nghĩa là ruộng sâu, lầy thụt. Theo các cụ già địa phƣơng kể lại,
Nà Lữ ngày xƣa là một vùng đất trũng ven sông, quanh làng Nà Lữ đã có 12
giếng nƣớc tự nhiên. Nhiều khu ruộng cao của Hoàng Tung hiện nay xƣa là đầm
lầy nhƣ khu Nà Ó (ruộng cây sậy) (nay thuộc Bản Chạp). Đầu thế kỷ XX, nhân dân
mới khai phá vùng Nà Ó, cải tạo thành ruộng lúa. Hơn nữa, những địa danh có tiền
tố “ao” nay đã trở thành ruộng cao, dùng để cày cấy nhƣ Ao Quan, Ao Cả, Ao Xe,
Thâm Rạng (Ao voi)... Nà Lữ còn có tên gọi là Nà Lự hay Na Lữ. Đây là các cách
phát âm khác của cƣ dân địa phƣơng và các vùng lân cận. Có tên gọi là Nà Lự bởi
trong phát âm của ngƣời Tày không có dấu ngã, nên những từ có dấu đó nhiều khi
chuyển thành dấu nặng.
Nà Lữ nằm ở trung tâm khu vực lòng máng sông Bằng (cánh đồng Hoà An
hiện nay), có độ cao trung bình so với mặt nƣớc biển là 250 - 350m. Do nằm
giữa hai dãy núi đá vôi Bảo Lạc - Tắp Ná và Lục Khu Hà Quảng - Trà Lĩnh, ở
giữa có sông Bằng chảy qua, nên Nà Lữ cũng nhƣ khu vực Hoà An có một vùng
đất rộng rãi với những cánh đồng phì nhiêu nằm xen với đồi núi.
Đồi núi ở Nà Lữ nằm trong dãy núi đất bắt nguồn “từ xã Triều Vũ huyện
Nguyên Bình chạy đến núi Thiên Mã (núi đất) xã Phúc Tăng, tản đi các xã Phúc
Cơ, Hà Đàm, Nà Lữ, An Ninh rồi hết, dài khoảng 20 dặm” [89, tr.661]. Vì thế, ở
Nà Lữ núi đất là chủ yếu, chiếm khoảng 20% diện tích tự nhiên của vùng, tạo
thành những rừng cây um tùm, rậm rạp, cung cấp cho cƣ dân địa phƣơng nhiều
lâm sản. Các loại gỗ quý nhƣ lim, táu, nghiến, lát sả kài, cáng lò, bồ đề ... dùng

để làm nhà cửa và các vật dụng gia đình; các loại cây hƣơng liệu và thuốc quý
nhƣ kim mao cẩu tích, sa nhân, hà thủ ô, tam thất, mộc nhĩ, nấm hƣơng, ...; các
loại rau, thực phẩm nhƣ măng, rau ngót rừng, rau dển, củ nâu, củ chàm .... Mây,
tre, vầu, nứa, trúc ... thì nhiều vô kể, không chỉ có ở rừng mà còn mọc dọc theo
bờ sông Bằng và các khe suối. Rừng Nà Lữ còn là nơi sinh sống của nhiều loài
động vật nhƣ hƣơu, nai, hổ, báo, lợn lòi, tê tê, sóc, cầy,...
Nà Lữ nằm trong đới địa chất sông Hiến, đƣợc hình thành cách đây khoảng
26 - 30 triệu năm. Đới sông Hiến nằm giữa đứt gãy sông Năng và đứt gãy Cao
Bằng - Tiên Yên. Trong đới có một đƣờng đứt gãy dài chạy theo hƣớng Tây Đông,
qua vùng núi Phya Oắc nối liền từ Nguyên Bình đến Hoà An. Đƣờng đứt gãy này
có đá trầm tích lục nguyên phun trào và trầm tích của hồ Nêôgen. Do đó, trong lòng
đất của đới sông Hiến, đặc biệt là khu vực Nguyên Bình, Hoà An, Thạch An có
nhiều khoáng sản quý nhƣ vàng, thiếc, đồng, sắt, ti tan... Nà Lữ có mỏ sắt ở xóm Bó
Lếch (giếng sắt).
Hệ thống sông suối của Nà Lữ dày đặc, đảm bảo nguồn nƣớc tƣới để phát
triển nghề trồng lúa. Bằng Giang là con sông lớn nhất của tỉnh, bắt nguồn Trung
Quốc, qua huyện Hà Quảng, “chảy về phía đông qua xã Nhƣợng Bạn và An Ninh,
lại chảy về phía đông nam qua các xã Cối Khê, Thọ Cƣơng, Cầu Lâm, Nà Lữ và
Vu Thuỷ” [67, tr.415], đến thành Mục Mã hợp lƣu với sông Hiến, sông Cổn, rồi
xuôi về Quảng Hoà, sang Long Châu (Trung Quốc). Sông Bằng chảy qua địa phận
Nà Lữ dài khoảng 3km “rộng 13 trƣợng 8 thƣớc, sâu 5 thƣớc” [89, tr.661], vừa
cung cấp nguồn nƣớc dồi dào cho các cánh đồng ở Nà Lữ, vừa thuận lợi cho
thuyền bè qua lại.
Ngoài ra, Nà Lữ có nhiều suối, chiếm 7/11 con suối của xã Hoàng Tung,
hầu hết bắt nguồn từ đồi núi phía Tây Nam, chảy qua các khe núi và cánh đồng ra
sông Bằng nhƣ Khuổi Quan, Khuổi Lủng, Khuổi Cƣờm, Khuổi Luông, Khuổi Nặm,
Suối Thiềng, suối Thơi. Suối của Nà Lữ nhỏ, dốc, nƣớc chảy xiết, mỗi khi trời mƣa
to, nƣớc lên rất nhanh và thƣờng ứ lại từ 3 đến 5 ngày sau mới rút hết [89, tr.657].
Sông suối ở Nà Lữ không chỉ đem lại nguồn nƣớc cho sinh hoạt và sản xuất mà còn

chép, ba ba, rùa ...
Trong lịch sử, Nà Lữ đã từng đóng vai trò là kinh đô, là trung tâm chính trị
của một vùng nên giao thông rất thuận lợi, có cả đƣờng bộ và đƣờng thuỷ. Sách
Đồng Khánh địa dư chí có nhắc đến một con đƣờng nhỏ đi từ phủ lỵ Hoà An
(tức là Cao Bình, xã Hƣng Đạo hiện nay) theo hƣớng Tây Nam qua các xã Nà
Lữ, Lân Chỉ (huyện Thạch Lâm), các xã Gia Bằng, Bằng Đức (huyện Nguyên
Bình) đến xã Vân Tòng giáp giới huyện Cảm Hoá (tỉnh Thái Nguyên) [89,
tr.658]. Nà Lữ còn nhiều đƣờng mòn, có thể sử dụng những phƣơng tiện thô sơ
nhƣ ngựa, xe trâu... nối liền các bản với nhau, các bản với rừng và đồng ruộng.
Nhiều con đƣờng đã đƣợc nhân dân cải tạo thành đƣờng lớn, ô tô có thể vào
đƣợc nhƣ đƣờng nối liền từ Làng Đền, Nà Lữ qua Bến Đò, Bản Chạp, Kế Nông,
Bó Lếch, đến Bản Tấn có một đƣờng đi Quốc lộ 3; một đƣờng đi Hào Lịch, đến
Lam Sơn (xã Hồng Việt) lại có một đƣờng qua cầu Hoằng Bó lên Thị trấn Nƣớc
Hai, một đƣờng đi Minh Tâm, Nguyên Bình.
Nà Lữ nằm ở khu vực trung tâm cánh đồng Hòa An, lại có sông Bằng chảy
qua nên cũng đƣợc coi là một trong những đầu mối giao thông về đƣờng thuỷ,
thuận tiện cho việc thông thƣơng với các địa phƣơng trong tỉnh và với Trung
Quốc. Trên con sông này, những chiếc thuyền mành và bè mảng thƣờng xuyên
chuyên chở khách du lịch và thƣơng nhân đi lại buôn bán giữa Trung Quốc và
Cao Bằng [135, tr.181]. Thƣơng nhân ngƣời Hoa có thể đi thuyền từ Long Châu
(Trung Quốc) sang buôn bán ở các chợ dọc sông Bằng. Qua khảo sát thực tế cho
thấy, Nà Lữ từng có 3 bến đò (thuộc các xóm Làng Đền, Nà Lữ và Bến Đò). Từ
đây, ngƣời dân địa phƣơng có thể đi thuyền mảng lên buôn bán ở Háng Cáp
(Nƣớc Hai), Nà Giàng (Hà Quảng), Mỏ Sắt (xã Dân Chủ), có thể sang phố Cao
Bình (Háng Shéng), hay xuôi xuống Mục Mã cũng nhƣ các chợ miền Đông Cao
Bằng, thậm chí sang tận Long Châu (Trung Quốc). Tuy nhiên, sông Bằng thƣờng
bị cạn nƣớc vào mùa đông, và lòng sông luôn ẩn chứa những ghềnh đá nguy
hiểm vào mùa hè [135, tr.181]. Do đó, càng về sau, giao thông đƣờng thủy càng
mất vai trò của mình trong việc thông thƣơng với Trung Quốc.

hậu miền Bắc nhiệt đới gió mùa. Do điều kiện cảnh quan quy định nên khí hậu ở
đây mang tính tiểu vùng rõ rệt. Nguyễn Trãi đã dẫn lời trong sách Ác thuỷ ký
rằng thiên hạ có 29 xứ nƣớc độc thì Cao Bằng chiếm cả 4 xứ là châu Thạch Lâm,
Quảng Nguyên, Thƣợng, Hạ Lang [98, tr.240-241]. Ở Nà Lữ, “mùa xuân còn rét,
mùa hè mƣa nhiều, mùa thu rất nóng, mùa đông rất lạnh… có lam chƣớng” [67,
tr.406]. Cụ thể là: “Đất liền vùng chân rừng, nhiều sƣơng mù chƣớng khí, mặt
trời lên cao 2, 3 trƣợng sƣơng núi mới tan, từ thu đông đến mùa xuân đều nhƣ
thế. Mùa xuân nhiều gió đông bắc, tháng 3 trời còn rét. Tháng 4 thời tiết ấm dần.
Tháng 5, 6 nắng nóng, mƣa nhiều, sông suối dâng tràn, sau mƣa từ 3 đến 5 ngày
mới rút hết. Tháng 7, 8 lui nóng, đêm đến lạnh dần. Tháng 9, 10 trời thƣờng âm u.
Tháng 11, 12 gió bắc, rét đậm, thỉnh thoảng có mƣa tuyết. Nhƣng bốn mùa không
có gió bão” [89, tr.657].
Nhƣ vậy, ở Nà Lữ một năm vẫn có hai mùa rõ rệt: mùa mƣa kéo dài từ
tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4.
Nhiệt độ trung bình hàng năm là 20 - 220C. Vào mùa lạnh, nhiệt độ trung
bình giảm xuống dƣới 160C. Lạnh nhất trong năm là tháng 11, 12, nhiệt độ trung
bình tháng xuống tới 13 - 140C, có năm nhiệt độ xuống dƣới 00C, thƣờng kèm
theo sƣơng muối. Nhƣng mùa đông không phải là một chuỗi thời gian rét liên tục
mà có xen kẽ những ngày ấm áp do gió đông mang lại. Nhiệt độ tối cao trong
mùa lạnh có thể đạt tới 28 - 290C. Nhƣng nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm
rất lớn. Ban ngày, trời quang, nắng ấm, nhiệt độ lên khá cao nhƣng ban đêm
giảm xuống rất thấp, biên độ trung bình ngày từ 8 -100C, nhất là vào thời gian
giao mùa [6, tr.12-13]. Vì thế, vào khoảng tháng 3, 4 và tháng 7-8 (âm lịch),
ngƣời dân Nà Lữ đêm ngủ vẫn phải đắp chăn bông. Ngƣời dân thƣờng có câu ca:
“Bƣơn chất dân rẻt rẻt - Bƣơn pét dân rịu rịu” (tức là tháng 7 mới chớm rét,
tháng 8 đã thấy lạnh buốt). Vào mùa nóng, nhiệt độ thấp nhất là 250C, cao nhất
có thể lên tới 370C. Thời gian nóng nhất trong năm là tháng 5, tháng 6.
Do ở xa biển, nên lƣợng mƣa trung bình hàng năm của Nà Lữ đạt từ 1300 -
1500mm. Song lƣợng mƣa không phân bố đều trong các tháng, mùa mƣa chỉ kéo

dài trong vòng 5 tháng nhƣng tập trung tới 70 - 80% tổng lƣợng mƣa của năm.
Thời gian mƣa nhiều nhất là tháng 6, tháng 7, lƣợng mƣa trung bình tháng có thể
lên tới 300mm. Những tháng mùa khô thì khác hẳn, lƣợng mƣa chỉ đạt từ 4 -
50mm. Trong thời gian này thƣờng xảy ra hạn hán trầm trọng, có khi 4 tuần liền
không có mƣa. Ví dụ vào tháng 2, 3 năm 1962 ở Hoà An có tới 53 ngày liền
không mƣa gây ra nạn hạn hán kéo dài [6, tr.31-32]. Thỉnh thoảng ở Nà Lữ cũng
xuất hiện những thiên tai khác nhƣ sƣơng muối, mƣa đá ... gây ảnh hƣởng không
nhỏ đến sản xuất.
Ở Nà Lữ, độ ẩm tƣơng đối cao, trung bình từ 75 - 85%. Độ ẩm có thể giảm
xuống dƣới 30%, nhất là vào khoảng tháng 12 và tháng 1. Nhƣng sang thời kỳ
mƣa phùn vào tháng 2, 3 độ ẩm có thể đạt tới hơn 90% .
Khí hậu trên đã làm ảnh hƣởng không nhỏ đến cuộc sống sinh hoạt và sản
xuất của cƣ dân. “Ruộng đất khô rắn xấu xa, chỉ cấy đƣợc vụ mùa, không có vụ
chiêm, tháng 4 cấy, tháng 8, tháng 9 thu hoạch, nếu cấy hơi muộn đến cuối mùa
thu khí hậu giá lạnh, lúa không trổ bông đƣợc mà bị chết khô” [67, tr.406-407].
Song, so với các vùng khác của Cao Bằng thì Nà Lữ là một nơi tƣơng đối thuận
lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp.
Đất ở Nà Lữ chủ yếu là đất phù sa đƣợc bồi đắp bởi sông Bằng và đất mùn
trên núi nên rất thuận lợi cho cây lúa nƣớc phát triển. Tuy nhiên, đất ở đây không
đƣợc màu mỡ nhƣ vùng đồng bằng. Theo Địa bạ thì tổng diện tích cấy trồng của
phƣờng Nà Lữ năm 1805 là 344 mẫu 7 sào 3 tấc và đến năm 1840 nhờ khai
hoang mà tăng lên 347 mẫu 1 sào 13 thƣớc 3 tấc, song hoàn toàn là ruộng hạng 2
và hạng 3, trong đó ruộng hạng 3 chiếm 56,7%.
Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên nhƣ trên, Nà Lữ có thể phát triển một
nền kinh tế toàn diện: nông - lâm - ngƣ nghiệp và công thƣơng, trong đó nông
lâm nghiệp đƣợc coi là thế mạnh

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
J Đánh giá tính đa dạng sinh học và đề xuất giải pháp bảo tồn hệ sinh thái đầm lầy rừng Nà tại Mộ Đức, Quảng Ngãi Khoa học Tự nhiên 0
T Trong quá trình kiểm toán tại một khách hàng tôi có gặp tình huống này mà chưa biết xử lý như thế nà Hỏi đáp Thuế & Kế toán 1
D Bước đầu đánh giá sự phối hợp tác động giữa môi trường sống tự nhiên bị nhiễm độc ASEN với các yếu tố nguy cơ khác tới sức khỏe cư dân sống lâu ngày ở bản thuộc xã Rư Sinh, xã Nà Ngư, huyện Sông Mã tỉnh Sơn La Tài liệu chưa phân loại 0
F Nghiên cứu nào đầy đủ về sự thay đổi của tế chiều dày giác mạc sau phẫu thuật TTT cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi nà Tài liệu chưa phân loại 0
N Ai cần directX 9.0c xịn không nà?:) An toàn - Tối ưu hệ thống 14
A Mua laptop theo nhà sản xuất (Acer, Aus, HP, Lenovo, Mac,Think pack, Dell )nên chọn nhà sản xuất nà Hỏi đáp Tin học 0
A Bà Nà Núi Chúa - Kho tài nguyên quý báu Tài liệu chưa phân loại 0
R Dùng dao cạo để cạo lông chân, gần đây ở ống chân của mình mọc nhiều và cứng lên. Em phải làm thế nà Sức khỏe 5
B Thực phẩm dinh dưỡng?mình thấy bây giờ trên thị trương có rất nhiều lại thực phẩm không biết loại nà Ẩm thực 6
T Làm thế nào có thể call từ PC đến Phone, PC có cân đồ tai fone hay không?, Phải thiết lập như thế nà Hỏi đáp Tin học 3

Các chủ đề có liên quan khác

Top