kechaytronngaymai_cg
New Member
Luận văn Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt kim trong hoạt động xuất khẩu của công ty Dệt Kim Đông Xuân
Công ty Dệt Kim Đông Xuân (nhà máy Dệt Kim Đông Xuân trước đây), được thành lập từ năm 1959 theo quyết định số 1083/QĐ cấp ngày 13 tháng 4 năm 1959 của Bộ Công Nghiệp nhẹ (Nay là Bộ Công Nghiệp). Đây là doanh nghiệp nhà nước đầu tiên của nghành dệt kim Việt Nam.
Năm 1980 nhà máy được mở rộng theo quyết định số 213/TTG ngày 1/7/1980 của Thủ Tướng Chính Phủ.
Ngày 31/12/1992 Bộ công nghiệp nhẹ (nay là bộ công nghiệp) có quyết định số 704/CNN - TCLĐ chuyển đổi tổ chức và hoạt động của nhà máy Dệt Kim Đông Xuân thành công ty Dệt Kim Đông Xuân với tên giao dịch là DOXIMEX.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Trái với Nhật, Trung Quốc là quốc gia cung cấp hàng may mặc chủ yếu cho thị trường thế giới. Trung Quốc xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông, Mỹ, EU và rất nhiều quốc gia khác sản phẩm may mặc có giá rẻ, mẫu mã thông thường, chất lượng trung bình. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm là 20 - 25 tỷ USD, trong khi kim ngạch nhập khẩu chỉ bằng 10% kim ngạch xuất khẩu. Trung Quốc đang thay đổi thướng phát triển để chuyển từ một quốc gia có ngành công nghiệp dệt may "lớn" thành "mạnh', với một số biện pháp tăng sức cạnh tranh quốc tế là điều chỉnh quy mô sản xuất, hiện đại hoá thiết bị, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm dựa trên lợi thế về tính thông dụng của sản phẩm. Nghiên cứu khả năng sản xuất và cách tiếp cận thị trường của Trung Quốc sẽ cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu.
Hồng Kông là quốc gia sử dụng chủ yếu cách tạm nhập tái xuất để xuất khẩu hàng may mặc ra thị trường thế giới. Trong mấy năm gần đây, tổng giá trị xuất khẩu của Hồng Kông là 20 đến 23 tỷ USD thì giá trị hàng tái xuất chiếm 50%. Thị trường cung cấp nguyên vật liệu và bán thành phẩm chủ yếu cho Hồng kông là Trung Quốc. Nhưng khác với quan điểm của Trung Quốc là nhấn mạnh tính thông dụng và mức giá rẻ của sản phẩm, Hồng Kông sản xuất và xuất khẩu chủ yếu là hàng may mặc cao cấp, các sản phẩm thời trang, độc đáo và ấn tượng. Trong tương lai, mô hình buôn bán "tam giác" Hồng Kông - Trung Quốc - tái xuất khẩu rất có triển vọng vì hiện tại Hồng Kông đã thuộc về Trung Quốc, công nghiệp may mặc vẫn chủ yếu dựa vào khả năng sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn và khai thác các thị trường mới.
2.1.3.2 Thị trường nhập khẩu.
a. Thị trường Bắc Mỹ
Các nước Bắc Mỹ là những nhà nhập khẩu hàng may mặc lớn. Riêng hai nước Mỹ, Canada chiếm gần 30% khối lượng nhập khẩu của thế giới. Mỹ là quốc gia đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng giá trị nhập khẩu của thế giới. Kim ngạch nhập khẩu những năm cuối thập kỷ 90 lên tới 40 - 45 tỷ USD. Chính vì biết được nhu cầu nhập khẩu lớn ở thị trường Mỹ nên các quốc gia ngày càng tăng cường khả năng thâm nhập vào thị trường đầy tiềm năng này. Để quản lý và hạn chế nguồn hàng nhập khẩu, Mỹ đã ký thoả thuận hạn ngạch song phương với 41 nước. Lĩnh vực may mặc của Mỹ là lĩnh vực có sự bảo hộ rất lớn với biểu thuế 48%. Các quốc gia khác cũng có hy vọng với sự ra đời của ATC, Mỹ sẽ cắt giảm mức thuế này và duy trì ở mức 18%. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển đổi, hạn ngạch của Mỹ có lẽ sẽ chặt chẽ hơn - điều này rất quan trọng đối với một số nước Đông Nam á.
Gần đây, nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ đã chuyển mạnh từ khu vực Châu á sang các nước Mêhicô, các nước vùng Caribê, là một số nước có ưu thế về mức lương thấp. Bên cạnh đó, sự chuyển dịch này còn do xu hướng tăng cường mối quan hệ thương mại khu vực, do quy định về xuất xứ hàng hoá làm cao thêm rào cản hàng may mặc nhập khẩu từ các nước Châu á.
Để hiểu thêm về thị trường Mỹ trong lĩnh vực buôn bán, tiêu thụ hàng may mặc, ta có thể tham khảo một số số liệu cụ thể đã được thu thập năm 1998.
Năm 1998, 25 nước xuất khẩu chính xuất khẩu vào thị trường Mỹ 53,769 tỷ USD hàng dệt may các loại thì trong đó hàng may mặc đã chiếm 40,926 tỷ USD, cụ thể từng nước như sau:
Bảng 2.1: Các nước xuất khẩu chính vào thị trường Mỹ
Nước xuất khẩu
Giá trị
(triệu USD)
Nước xuất khẩu
Giá trị
(triệu USD)
Mehico
Trung Quốc
Hồng Kông
Dominique
Honduras
Bangladesh
Đài Loan
Hàn Quốc
El Salvador
Philippines
Indonesia
India
Thailand
6.906,4
4.427,6
4.394,2
2.394,2
1.946,1
1.622,7
2.072,3
2.033,3
1.198,3
1.771,5
1.653,3
1.582,6
1.452,6
14.Sri Lanka
15. Costa Rica
16. Guatenmala
17. Canada
18. Macao
19. Pakistan
20. Thổ Nhĩ Kỳ
21. Malaysia
22. Jamaica
23. Cambodia
24. Haiti
25. Ai Cập
1.391,5
829,2
1.163,7
1.469,1
1.078,4
685,7
749,1
756,6
393,9
492,7
228,6
337,3
(Nguồn: Báo cáo hội thảo thị trường - Tổng công ty dệt may Việt Nam)
Những con số cho thấy thị trường Mỹ là một thị trường rộng, nhu cầu cao và nhiều người nghiên cứu về thị trường Mỹ cũng đã có nhận xét rằng người Mỹ không chú ý quá nhiều đến chất lượng mà đòi hỏi người xuất khẩu phải đáp ứng số lượng hàng lớn, thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết của hợp đồng, sẵn sàng huỷ hợp đồng khi vi phạm, ít thể hiện sự thông cảm. Việt Nam đã ký hiệp định thương mại với Mỹ và hai nước đã có sự đàm phán về hàng dệt may.
b. Thị trường EU.
Thị trường EU là một thị trường rộng, có khả năng nhập khẩu không kém gì thị trường Mỹ. Năm 1999, EU nhập khẩu 41 tỷ Euro tương đương với 43 tỷ USD hàng may mặc. Các nước xuất khẩu chính đa phần là những nhà xuất khẩu chính của Mỹ, tuy nhiên ở thị trường này kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam có lớn hơn ở Mỹ.
EU là thị trường xuất khẩu may mặc theo hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam, chiếm 43% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu đặc biệt phát triển mạnh từ sau hiệp định buôn bán hàng dệt - may giữa Việt Nam với EU được ký kết năm 1992 và được thực hiện từ năm 1993, tốc độ tăng trưỏng trong thập kỷ 90 đạt khoảng 20%- 23%, với sản phẩm chủ yếu là áo jacket. Nhưng Việt Nam còn gặp khó khăn trong hoạt động xuất khẩu sang EU.
Thứ nhất: do không ký được hợp đồng trực tiếp với bạn hàng EU, nên gần 80% hàng may mặc xuất khẩu phải gia công qua nước thứ ba, do đó không được hưởng ưu đãi thuế quan của các nước EU.
Thứ hai: số hạn ngạch EU dành cho Việt Nam quá thấp so với các nước ASEAN và Trung Quốc - mặc dù đầu tháng 4/ 2000, EU đã tăng thêm 27% hạn ngạch cho Việt Nam.
Thứ ba: sản phẩm xuất khẩu chỉ tập trung vào một số sản phẩm truyền thống như áo jacket, áo sơ mi, quần âu còn các sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp, chất lượng cao thì Việt Nam chưa sản xuất được hay sản xuất ra rất ít.
Hạn ngạch mà EU dành cho Việt Nam có bao nhiêu chúng ta thực hiện hết kể cả sử dụng các điều khoản linh hoạt (chuyển đổi, giao trước của năm tiếp theo). Nếu không có hạn ngạch chúng ta còn có thể xuất khẩu vào thị trường này nhiều hơn nữa. Vấn đề hạn ngạch thuộc trách nhiệm của các nhà đàm phán còn những nhà sản xuất cần nắm những vấn đề khác, xem chúng ta đang đứng ở đâu, hiệu quả đạt đến mức nào, còn khắc phục những vấn đề gì để tăng khả năng cạnh tranh, nhất là khi không còn áp dụng ch
Download Luận văn Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt kim trong hoạt động xuất khẩu của công ty Dệt Kim Đông Xuân miễn phí
Công ty Dệt Kim Đông Xuân (nhà máy Dệt Kim Đông Xuân trước đây), được thành lập từ năm 1959 theo quyết định số 1083/QĐ cấp ngày 13 tháng 4 năm 1959 của Bộ Công Nghiệp nhẹ (Nay là Bộ Công Nghiệp). Đây là doanh nghiệp nhà nước đầu tiên của nghành dệt kim Việt Nam.
Năm 1980 nhà máy được mở rộng theo quyết định số 213/TTG ngày 1/7/1980 của Thủ Tướng Chính Phủ.
Ngày 31/12/1992 Bộ công nghiệp nhẹ (nay là bộ công nghiệp) có quyết định số 704/CNN - TCLĐ chuyển đổi tổ chức và hoạt động của nhà máy Dệt Kim Đông Xuân thành công ty Dệt Kim Đông Xuân với tên giao dịch là DOXIMEX.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
hâu á gồm Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm từ 15% - 20%. Sản phẩm may mặc ở Châu á được coi là sản phẩm truyền thống, được phát huy dựa vào lợi thế nguồn nhân công tương đối dồi dào. Từ năm 1990 đến nay Nhật Bản là thị trường nhập khẩu lớn thứ 3 thế giới, chiếm 11% kim ngạch nhập khẩu trên toàn thế giới (khoảng 20.000 triệu USD). Nhưng đây không phải là thị trường xuất khẩu lớn, kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 2,5% kim ngạch nhập khẩu. Nhật Bản nhập khẩu hàng may mặc chủ yếu từ Trung Quốc (63%), Italia, Mỹ, Hàn Quốc.Trái với Nhật, Trung Quốc là quốc gia cung cấp hàng may mặc chủ yếu cho thị trường thế giới. Trung Quốc xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông, Mỹ, EU và rất nhiều quốc gia khác sản phẩm may mặc có giá rẻ, mẫu mã thông thường, chất lượng trung bình. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm là 20 - 25 tỷ USD, trong khi kim ngạch nhập khẩu chỉ bằng 10% kim ngạch xuất khẩu. Trung Quốc đang thay đổi thướng phát triển để chuyển từ một quốc gia có ngành công nghiệp dệt may "lớn" thành "mạnh', với một số biện pháp tăng sức cạnh tranh quốc tế là điều chỉnh quy mô sản xuất, hiện đại hoá thiết bị, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm dựa trên lợi thế về tính thông dụng của sản phẩm. Nghiên cứu khả năng sản xuất và cách tiếp cận thị trường của Trung Quốc sẽ cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu.
Hồng Kông là quốc gia sử dụng chủ yếu cách tạm nhập tái xuất để xuất khẩu hàng may mặc ra thị trường thế giới. Trong mấy năm gần đây, tổng giá trị xuất khẩu của Hồng Kông là 20 đến 23 tỷ USD thì giá trị hàng tái xuất chiếm 50%. Thị trường cung cấp nguyên vật liệu và bán thành phẩm chủ yếu cho Hồng kông là Trung Quốc. Nhưng khác với quan điểm của Trung Quốc là nhấn mạnh tính thông dụng và mức giá rẻ của sản phẩm, Hồng Kông sản xuất và xuất khẩu chủ yếu là hàng may mặc cao cấp, các sản phẩm thời trang, độc đáo và ấn tượng. Trong tương lai, mô hình buôn bán "tam giác" Hồng Kông - Trung Quốc - tái xuất khẩu rất có triển vọng vì hiện tại Hồng Kông đã thuộc về Trung Quốc, công nghiệp may mặc vẫn chủ yếu dựa vào khả năng sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn và khai thác các thị trường mới.
2.1.3.2 Thị trường nhập khẩu.
a. Thị trường Bắc Mỹ
Các nước Bắc Mỹ là những nhà nhập khẩu hàng may mặc lớn. Riêng hai nước Mỹ, Canada chiếm gần 30% khối lượng nhập khẩu của thế giới. Mỹ là quốc gia đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng giá trị nhập khẩu của thế giới. Kim ngạch nhập khẩu những năm cuối thập kỷ 90 lên tới 40 - 45 tỷ USD. Chính vì biết được nhu cầu nhập khẩu lớn ở thị trường Mỹ nên các quốc gia ngày càng tăng cường khả năng thâm nhập vào thị trường đầy tiềm năng này. Để quản lý và hạn chế nguồn hàng nhập khẩu, Mỹ đã ký thoả thuận hạn ngạch song phương với 41 nước. Lĩnh vực may mặc của Mỹ là lĩnh vực có sự bảo hộ rất lớn với biểu thuế 48%. Các quốc gia khác cũng có hy vọng với sự ra đời của ATC, Mỹ sẽ cắt giảm mức thuế này và duy trì ở mức 18%. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển đổi, hạn ngạch của Mỹ có lẽ sẽ chặt chẽ hơn - điều này rất quan trọng đối với một số nước Đông Nam á.
Gần đây, nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ đã chuyển mạnh từ khu vực Châu á sang các nước Mêhicô, các nước vùng Caribê, là một số nước có ưu thế về mức lương thấp. Bên cạnh đó, sự chuyển dịch này còn do xu hướng tăng cường mối quan hệ thương mại khu vực, do quy định về xuất xứ hàng hoá làm cao thêm rào cản hàng may mặc nhập khẩu từ các nước Châu á.
Để hiểu thêm về thị trường Mỹ trong lĩnh vực buôn bán, tiêu thụ hàng may mặc, ta có thể tham khảo một số số liệu cụ thể đã được thu thập năm 1998.
Năm 1998, 25 nước xuất khẩu chính xuất khẩu vào thị trường Mỹ 53,769 tỷ USD hàng dệt may các loại thì trong đó hàng may mặc đã chiếm 40,926 tỷ USD, cụ thể từng nước như sau:
Bảng 2.1: Các nước xuất khẩu chính vào thị trường Mỹ
Nước xuất khẩu
Giá trị
(triệu USD)
Nước xuất khẩu
Giá trị
(triệu USD)
Mehico
Trung Quốc
Hồng Kông
Dominique
Honduras
Bangladesh
Đài Loan
Hàn Quốc
El Salvador
Philippines
Indonesia
India
Thailand
6.906,4
4.427,6
4.394,2
2.394,2
1.946,1
1.622,7
2.072,3
2.033,3
1.198,3
1.771,5
1.653,3
1.582,6
1.452,6
14.Sri Lanka
15. Costa Rica
16. Guatenmala
17. Canada
18. Macao
19. Pakistan
20. Thổ Nhĩ Kỳ
21. Malaysia
22. Jamaica
23. Cambodia
24. Haiti
25. Ai Cập
1.391,5
829,2
1.163,7
1.469,1
1.078,4
685,7
749,1
756,6
393,9
492,7
228,6
337,3
(Nguồn: Báo cáo hội thảo thị trường - Tổng công ty dệt may Việt Nam)
Những con số cho thấy thị trường Mỹ là một thị trường rộng, nhu cầu cao và nhiều người nghiên cứu về thị trường Mỹ cũng đã có nhận xét rằng người Mỹ không chú ý quá nhiều đến chất lượng mà đòi hỏi người xuất khẩu phải đáp ứng số lượng hàng lớn, thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết của hợp đồng, sẵn sàng huỷ hợp đồng khi vi phạm, ít thể hiện sự thông cảm. Việt Nam đã ký hiệp định thương mại với Mỹ và hai nước đã có sự đàm phán về hàng dệt may.
b. Thị trường EU.
Thị trường EU là một thị trường rộng, có khả năng nhập khẩu không kém gì thị trường Mỹ. Năm 1999, EU nhập khẩu 41 tỷ Euro tương đương với 43 tỷ USD hàng may mặc. Các nước xuất khẩu chính đa phần là những nhà xuất khẩu chính của Mỹ, tuy nhiên ở thị trường này kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam có lớn hơn ở Mỹ.
EU là thị trường xuất khẩu may mặc theo hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam, chiếm 43% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu đặc biệt phát triển mạnh từ sau hiệp định buôn bán hàng dệt - may giữa Việt Nam với EU được ký kết năm 1992 và được thực hiện từ năm 1993, tốc độ tăng trưỏng trong thập kỷ 90 đạt khoảng 20%- 23%, với sản phẩm chủ yếu là áo jacket. Nhưng Việt Nam còn gặp khó khăn trong hoạt động xuất khẩu sang EU.
Thứ nhất: do không ký được hợp đồng trực tiếp với bạn hàng EU, nên gần 80% hàng may mặc xuất khẩu phải gia công qua nước thứ ba, do đó không được hưởng ưu đãi thuế quan của các nước EU.
Thứ hai: số hạn ngạch EU dành cho Việt Nam quá thấp so với các nước ASEAN và Trung Quốc - mặc dù đầu tháng 4/ 2000, EU đã tăng thêm 27% hạn ngạch cho Việt Nam.
Thứ ba: sản phẩm xuất khẩu chỉ tập trung vào một số sản phẩm truyền thống như áo jacket, áo sơ mi, quần âu còn các sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp, chất lượng cao thì Việt Nam chưa sản xuất được hay sản xuất ra rất ít.
Hạn ngạch mà EU dành cho Việt Nam có bao nhiêu chúng ta thực hiện hết kể cả sử dụng các điều khoản linh hoạt (chuyển đổi, giao trước của năm tiếp theo). Nếu không có hạn ngạch chúng ta còn có thể xuất khẩu vào thị trường này nhiều hơn nữa. Vấn đề hạn ngạch thuộc trách nhiệm của các nhà đàm phán còn những nhà sản xuất cần nắm những vấn đề khác, xem chúng ta đang đứng ở đâu, hiệu quả đạt đến mức nào, còn khắc phục những vấn đề gì để tăng khả năng cạnh tranh, nhất là khi không còn áp dụng ch