sarsnoel1285_fx
New Member
Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần bảo hiểm Bảo hiểm Bưu Điện (PTI)
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1.1 Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1.1.1 Khái niệm về hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1.2. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.1 Khái niệm về kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.2. Nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.2.1. Kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm gốc
1.2.2.2. Kinh doanh tái bảo hiểm
1.2.2.3. Giám định, bồi thường và đòi người thứ ba
1.2.2.4. Hoạt động đầu tư
1.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
1.3.1. Cạnh tranh và các hình thức cạnh tranh
1.3.1.1. Cạnh tranh
1.3.1.2. Các hình thức cạnh tranh
1.3.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
1.3.2.1 Năng lực cạnh tranh
1.3.2.2 Các hình thức cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
1.3.3. Các nhân tố phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
1.3.3.1. Năng lực tài chính
1.3.3.2 .Hệ thống sản phẩm và chất lượng dịch vụ
1.3.3.3. Thương hiệu của doanh nghiệp
1.3.3.4. Nguồn lực con người
1.3.3.5. Hệ thống phân phối
1.3.3.6. Kinh nghiệm hoạt động
1.3.4. Một số nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiêp bảo hiểm phi nhân thọ
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM BƯU ĐIỆN (PTI)
2.1. Giới thiệu về công ty cổ phần bảo hiểm Bưư Điện (PTI)
2.1.1.Giới thiệu về công ty
2.1.2 Tổ chức bộ máy của PTI
2.2. Một số nét về tình hình cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Số lượng doanh nghiệp bảo hiểm
2.2.2. Thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
2.2.3. Các sản phẩm bảo hiểm triển khai
2.2.4. Hệ thống phân phối của các DNBH phi nhân thọ
2.2.5. Nguồn lực tài chính của doanh nghiệp
2.2.5.1. Khả năng về vốn
2.2.5.2. Dự phòng nghiệp vụ
2.3. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của PTI
2.3.1. Năng lực tài chính
2.3.1.1. Khả năng về vốn
2.3.1.2.Trích lập dự phòng
2.3.2. Sản phẩm của PTI
2.3.3. Hệ thống phân phối
2.3.4. Bạn hàng
2.3.5. Nguồn lực con người
2.3.6. Giá cả sản phẩm, chất lượng giám định và giải quyết bồi thường
2.4. Kết quả hoạt động, vị trí của PTI trên thị trường
2.4.1. Kết quả
2.4.1.1. Doanh thu bảo hiểm gốc
2.4.1.2 Kết quả hoạt động nhận tái bảo hiểm
2.4.1.3 Hoạt động đầu tư
2.4.2. Thị phần của PTI qua các năm
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC
3.1. Một số kiến nghị đối với nhà nước giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
3.2. Giải pháp đối với doanh nghiệp bảo hiểm PTI nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường
3.2.1. Xây dựng và phát triển thương hiệu
3.2.2. Phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm bảo hiểm
3.2.3.Thực hiện công tác thống kê và định phí phù hợp
3.2.4. Tăng cường hoạt động quảng cảo, truyền thông
3.2.5. Mở rộng các kênh phân phối
3.2.6. Tăng tiềm lực tài chính của doanh nghiệp
3.2.7. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và đào tạo nguồn nhân lực
3.2.8. Hiện đại hoá bằng ứng dụng công nghệ thông tin
3.2.9. Tích cực nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vốn
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lời mở đầu
Năm 1965 đánh dấu cho sự ra đời của bảo hiểm Việt Nam, đến nay thị trường bảo hiểm nước ta đã có rất nhiều thay đổi và ngày càng phát triển. Trong những năm gần đây, có hàng loạt các công ty bảo hiểm trong và ngoài nước ra nhập thị trường bảo hiểm Việt Nam, do đó cạnh tranh ngày một gay gắt hơn, các công ty muốn đứng vững được trên thị trường thì tất yếu cần định hướng cho mình một kế hoạch kinh doanh cụ thể và mạng tính chiến lược.
Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện PTI được thành lập năm 1998, với hoạt động chính là kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ. Trong 10 năm qua, công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực kinh doanh của mình. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường tài chính mở cửa hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước cũng phải đối mặt với thách thức là bị thu hẹp thị phần do sự ra nhập thị trường một cách ồ ạt của các công ty mới. Công ty bảo hiểm PTI cũng bị cạnh tranh gay gắt bởi các đối thủ trong và ngoài nước. Trước tình hình này, để có thể giữ vững được vị thế và thị phần của mình trên thị trường bảo hiểm thì doanh nghiệp cần đặt ra cho mình những mục tiêu rõ ràng và chiến lược phát triển cụ thể trong từng thời kỳ, giúp cho doanh nghiệp nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường cũng như trước đối thủ cạnh tranh.
Chính vì vậy em chọn đề tài: “ Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần bảo hiểm Bảo hiểm Bưu Điện (PTI)” cho chuyên đề tốt nghiệp. Chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: đề cập đến một số lý luận cơ bản về cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ.
Chương II: Thực trạng về năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện (PTI).
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh của công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện (PTI).
Chương I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH TRONG KINH
DOANH BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1.1 Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1.1.1 Khái niệm về hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Mỗi cá nhân hay tổ chức tất yếu đều có nhu cầu về sự an toàn, do đó họ luôn tìm cách để bảo vệ mình, những người thân, và những tài sản mà họ đang có trước những biến cố trong cuộc sống có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nhận thức được điều này, còn người từ thời xa xưa đã tổ chức nhiều hình thức có những đặc điểm tương tự như bảo hiểm. Bảo hiểm mới thực sự ra đời đầu tiên là năm 1424, (với công ty bảo hiểm hàng hải). Cho đến nay, bảo hiểm đã phát triển hết sức mạnh mẽ và trở thành lĩnh vực hoạt động tài chính phổ biến ở khắp các nước trên thế giới.
Có thể hiểu kinh doanh bảo hiểm (KDBH) là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) nhằm mục đích sinh lợi, theo đó DNBH chấp nhận rủi ro của bên mua bảo hiểm, trên cơ sở bên mua đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hay bồi thường cho bên mua bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Khái niệm này thể hiện rõ những nội dung sau:
Thứ nhất: KDBH có mục đích kinh tế và lợi nhuận, đây là mục đích mà các DNBH hướng tới . Chỉ có thu được lợi nhuận DNBH mới có thể tồn tại và phát triển được trong điều kiện kinh tế thị trường. Lợi nhuận giúp doanh nghiệp trang trải cho các cá nhân và tổ chức, đồng thời cung cấp vốn cho chính bản thân họ. Mức lợi nhuận cao còn giúp doanh nghiệp duy trì nguồn quỹ dự phòng đủ lớn, hạn chế bớt nhượng tái bảo hiểm và có điều kiện để nâng cao mức thu nhập cho cán bộ nhân viên. Bên cạnh mục tiêu lợi nhuận, DNBH còn phải đáp ứng các nhu cầu của khách hàng, giúp khách hàng ổn định cuộc sống và sản xuất kinh doanh khi có tổn thất và thiệt hại bất ngờ xảy ra đối với họ, đồng thời DNBH còn có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. Ngoài ra, việc xuất hiện hình thức kinh doanh bảo hiểm còn góp phần đảm bảo sự an toàn và ổn định cho xã hội phát triển một cách bền vững.
Thứ hai: Tính chất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là các DNBH chấp nhận rủi ro mà bên tham gia bảo hiểm chuyển giao cho họ, có nghĩa là chấp nhận trả tiền bảo hiểm hay bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Đổi lại, DNBH sẽ thu được phí bảo hiểm, nguồn thu này sẽ hình thành nên quỹ dự trữ, quỹ bồi thường, trang trải các khoản chi phí bảo hiểm khác có liên quan và có lãi. Tuy nhiên, DNBH chỉ chấp nhận bảo hiểm cho những rủi ro xảy ra trong tương lai và có tính bất ngờ không chắc chắn, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người được bảo hiểm…Những đặc trưng của rủi ro được bảo hiểm tự nó nói lên phạm vị mà các nhà bảo hiểm phải xác định và lựa chọn. Điều này cũng ảnh hưởng ít nhiều tới hoạt động kinh doanh của DNBH .
Thứ ba: KDBH thường gắn liền với hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm. Kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lời, theo đó DNBH nhận một khoản phí bảo hiểm khác để cam kết bồi thường cho trách nhiệm đã nhận bảo hiểm. Ngoài ra, kinh doanh tái bảo hiểm còn giúp DNBH mở rộng quan hệ với các bạn hàng, tranh thủ nguồn vốn, kinh nghiệm nắm thêm thông tin, hỗ trợ đào tạo cán bộ…
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Kinh doanh bảo hiểm là ngành kinh doanh dịch vụ đặc biêt, nó có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất: Mức vốn pháp định áp dụng cho các doanh nghiệp bảo hiểm rất lớn, không phải bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào cũng có khả năng tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Ở nước ta hiện nay mức vốn pháp định áp dựng đối với các DNBH phi nhân thọ là 300 tỷ đồng Việt Nam.
Thứ hai: Bảo hiểm còn có ý nghĩa xã hội hết sức to lớn đó là đảm bảo về an toàn tình hình tài chính, giúp cho người tham gia bảo hiểm ổn định về cuộc sống và sản xuất kinh doanh. Do đó, Nhà nước hết sức quan tâm tới lĩnh vực kinh doanh này, thường xuyên kiểm tra, kiểm soát một cách hết sức chặt chẽ, điều này không những giúp đảm bảo lợi ích cho người tham gia bảo hiểm mà còn góp phần ổn định xã hội.
1.2. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.1 Khái niệm về kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
Bảo hiểm phi nhân thọ vẫn được sử dụng như một khái niệm tổng hợp mang ý nghĩa hàm chứa tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại (bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự) và các nghiệp vụ bảo hiểm con người không thuộc bảo hiểm nhân thọ (bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm bệnh tật, ốm đau…). Theo luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam giải thích về thuật ngữ bảo hiểm phi nhân thọ nh sau: “Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ”.
1.2.2. Nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.2.1. Kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm gốc
a. Đặc điểm
Đây là hoạt động cơ bản, là cơ sở cho sự tồn tại của DNBH. Hoạt động này là một quá trình liên hoàn từ khâu cấp đơn cho người tham gia bảo hiểm, thu phí bảo hiểm, theo dõi quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm, giám định tổn thất và giải quyết bồi thờng bảo hiểm.
Doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc theo một số nghiệp vụ, từ đó thu được phí bảo hiểm, và thực hiện chức năng chính của mình đó là tạo lập quỹ tiền tệ từ sự đóng góp của số đông để bù đắp những thiệt hại và tổn thất cho một số ít cá nhân, góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống của người tham gia bảo hiểm.
Quy trình thực hiện hoạt động KDBH gốc bắt đầu từ việc DNBH thông qua mạng lưới đại lý hay các nhân viên khai thác chào bán các dịch vụ bảo hiểm tới từng đối tượng khách hàng có nhu cầu. Khi hai bên đã thống nhất được các điều kiện cơ bản để có thể đi tới ký kết hợp đồng bảo hiểm, thì người có nhu cầu tham gia bảo hiểm sẽ gửi tới DNBH đề nghị hay yêu cầu được cung cấp dịch vụ
3.2.9. Tích cực nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vốn
Các doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi khai thác đựơc để đem đầu tư sinh lời, hiện nay doanh nghiệp bảo hiểm PTI chủ yếu sử dụng nguồn vốn này đem gửi ngân hàng và mua trái phiếu Chính Phủ, hai hình thức này tuy có độ an toàn cao nhưng lại có khả năng sinh lời kém, do đó chưa đem lại những lợi nhuận lớn đựơc cho công ty, vì thế để cho hoật động đầu tư thực sự góp phần nâng cao năng lực tài chính một cách đáng kể cho công ty thì doanh nghiệp cần nghiên cứu cách đầu tư hợp lý hơn:
- Doanh nghiệp cần có chương trình quản lý nguồn vốn: Nguồn vốn của công ty được hình thành chủ yếu bởi phí khai thác được từ các hợp đồng bảo hiểm, lượng tiền này thường là rất lớn và có tính ổn định, tuy nhiên doanh nghiệp không thể sử dụng hết nó mà phải giành phần lớn để chi trả và bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Do đó, doanh nghiệp cần xây dựng chương trình để quản lý việc sử dụng ngân quỹ này một cách hợp lý và hiệu quả. Công ty có hệ thống chi nhánh rộng khắp, tại mỗi chi nhánh lượng tiền tập trung là khá lớn, doanh nghiệp cần qui định một tỷ lệ giữ lại nhất định, phần tiền còn lại sẽ được chuyển nhanh chóng tới tổng công ty để thực hiện các kế hoạch đầu tư tiếp theo. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần chú ý cân nhắc, nếu chi nhánh nào đủ mạnh, có đủ năng lực thì có thể uỷ quyền giao cho một lượng vốn nhất định để chi nhánh đó thực hiện đầu tư sinh lời.
- Doanh nghiệp cần xây dựng các danh mục đầu tư hợp lý : Nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động đầu tư là rất lớn do đó cần nghiên cứu thật kỹ các hình thức đầu tư để sao cho vừa đảm bảo độ an toàn lại có tỷ suất lợi nhuân cao. Nguồn tiền này còn được dùng để chi trả, bồi thường cho khách hàng do đó cần đảm bảo độ an toàn, như hình thức đầu tư trái phiếu, gửi ngân hàng…Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần lựa chọn thêm một số hình thức đầu tư khác để sinh lợi nhuận cao, tăng thu nhập cho công ty như tham ra vào thị trường chứng khoán để mua cổ phiếu của các công ty khác, góp vốn liên doanh, liên kết, cho vay…Doanh nghiệp cũng cần cân nhắc lựa chọn các hình thức đầu tư ngắn hạn, dài hạn khác nhau để đảm bảo khả năng thanh toán khi cần thiết.
- Xây dựng chương trình đánh giá rủi ro của các dự án đầu tư : Trước khi thực hiện đầu tư công ty nên có chương trình đánh giá mức độ rủi ro dự án một cách nghiêm túc và kỹ lưỡng, từ đó có những quyết định nghiêm túc là có đầu tư hay không, hay nếu đầu tư thì với lượng vốn là bao nhiêu, có như vậy mới tránh được những thất bại trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
- Đào tạo chuyên môn cho nhân sự phòng Kế hoạch - đầu tư : trình độ chuyên môn của cán bộ thực hiện đầu tư quyết định đến hiệu quả hoạt động đầu tư , do đó công ty cần có những cán bộ giỏi về chuyên môn, am hiểu các lĩnh vực đầu tư, các luật lệ,tập quấn quốc tế về hoạt động đầu tư…từ đó tăng khả năng thành công của hoạt động đầu tư và nhạy bén hơn trong việc xử lý các tình huống xáu xảy ra trong quá trình đầu tư. Doanh nghiệp cung cần thường xuyên bổ sung, tuyển dụng thêm nhân sự cho phòng Kế hoạch đầu tư khi cần thiết, đồng thời trang bị đầy dủ các máy móc thiết bị phục vụ cho công tác phân tích, thẩm định đánh giá các dự án đầu tư.
- Công ty cũng cần theo dõi sát xao quá tình hình đầu tư trên thị trường để có những điều chỉnh phù hợp trong từng thời kỳ.Chẳng hạn như những biến động về lãi suất hay lạm phát cũng sẽ khiến doanh nghiệp thay đổi chiến lược đầu tư của mình, giúp doanh nghiệp có thể lựa chọn những hình thức đầu tư hợp lý nhất trong từng giai đoạn để tăng hiệu quả hoạt động đầu tư.
Kết luận
Trong những năm qua, công ty Cổ phần bảo hiểm Bưu Điện cũng đã đạt được rất nhiều thành công trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Hiện nay, PTI đang đứng ở vị trí thứ 5 trên thị trường trong lĩnh vực bảo hiểm đang kinh doanh, ngoài việc phát huy thế mạnh là nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật (luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng doanh thu của thị trường), DNBH PTI cũng đã phát triển thêm một số nghiệp vụ bảo hiểm khác và đạt được mức doanh thu rất cao. Tuy nhiên, DNBH PTI vẫn chưa thực sự tạo được niềm tin từ phía khách hàng, nhiều người dân còn cảm giác rất mới mẻ khi nghe tới tên doanh nghiệp này. Hơn nữa trong bối cảnh đất nước ta đang hội nhập mạnh mẽ, có rất nhiều DNBH ra nhập thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, nguy cơ bị thu hẹp về thị phần là rất có thể xảy ra. Vì thế, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường là một mục tiêu mà doanh nghiệp cần hướng tới.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1.1 Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1.1.1 Khái niệm về hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1.2. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.1 Khái niệm về kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.2. Nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.2.1. Kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm gốc
1.2.2.2. Kinh doanh tái bảo hiểm
1.2.2.3. Giám định, bồi thường và đòi người thứ ba
1.2.2.4. Hoạt động đầu tư
1.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
1.3.1. Cạnh tranh và các hình thức cạnh tranh
1.3.1.1. Cạnh tranh
1.3.1.2. Các hình thức cạnh tranh
1.3.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
1.3.2.1 Năng lực cạnh tranh
1.3.2.2 Các hình thức cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
1.3.3. Các nhân tố phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
1.3.3.1. Năng lực tài chính
1.3.3.2 .Hệ thống sản phẩm và chất lượng dịch vụ
1.3.3.3. Thương hiệu của doanh nghiệp
1.3.3.4. Nguồn lực con người
1.3.3.5. Hệ thống phân phối
1.3.3.6. Kinh nghiệm hoạt động
1.3.4. Một số nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiêp bảo hiểm phi nhân thọ
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM BƯU ĐIỆN (PTI)
2.1. Giới thiệu về công ty cổ phần bảo hiểm Bưư Điện (PTI)
2.1.1.Giới thiệu về công ty
2.1.2 Tổ chức bộ máy của PTI
2.2. Một số nét về tình hình cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Số lượng doanh nghiệp bảo hiểm
2.2.2. Thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
2.2.3. Các sản phẩm bảo hiểm triển khai
2.2.4. Hệ thống phân phối của các DNBH phi nhân thọ
2.2.5. Nguồn lực tài chính của doanh nghiệp
2.2.5.1. Khả năng về vốn
2.2.5.2. Dự phòng nghiệp vụ
2.3. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của PTI
2.3.1. Năng lực tài chính
2.3.1.1. Khả năng về vốn
2.3.1.2.Trích lập dự phòng
2.3.2. Sản phẩm của PTI
2.3.3. Hệ thống phân phối
2.3.4. Bạn hàng
2.3.5. Nguồn lực con người
2.3.6. Giá cả sản phẩm, chất lượng giám định và giải quyết bồi thường
2.4. Kết quả hoạt động, vị trí của PTI trên thị trường
2.4.1. Kết quả
2.4.1.1. Doanh thu bảo hiểm gốc
2.4.1.2 Kết quả hoạt động nhận tái bảo hiểm
2.4.1.3 Hoạt động đầu tư
2.4.2. Thị phần của PTI qua các năm
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC
3.1. Một số kiến nghị đối với nhà nước giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
3.2. Giải pháp đối với doanh nghiệp bảo hiểm PTI nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường
3.2.1. Xây dựng và phát triển thương hiệu
3.2.2. Phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm bảo hiểm
3.2.3.Thực hiện công tác thống kê và định phí phù hợp
3.2.4. Tăng cường hoạt động quảng cảo, truyền thông
3.2.5. Mở rộng các kênh phân phối
3.2.6. Tăng tiềm lực tài chính của doanh nghiệp
3.2.7. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và đào tạo nguồn nhân lực
3.2.8. Hiện đại hoá bằng ứng dụng công nghệ thông tin
3.2.9. Tích cực nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vốn
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lời mở đầu
Năm 1965 đánh dấu cho sự ra đời của bảo hiểm Việt Nam, đến nay thị trường bảo hiểm nước ta đã có rất nhiều thay đổi và ngày càng phát triển. Trong những năm gần đây, có hàng loạt các công ty bảo hiểm trong và ngoài nước ra nhập thị trường bảo hiểm Việt Nam, do đó cạnh tranh ngày một gay gắt hơn, các công ty muốn đứng vững được trên thị trường thì tất yếu cần định hướng cho mình một kế hoạch kinh doanh cụ thể và mạng tính chiến lược.
Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện PTI được thành lập năm 1998, với hoạt động chính là kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ. Trong 10 năm qua, công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực kinh doanh của mình. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường tài chính mở cửa hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước cũng phải đối mặt với thách thức là bị thu hẹp thị phần do sự ra nhập thị trường một cách ồ ạt của các công ty mới. Công ty bảo hiểm PTI cũng bị cạnh tranh gay gắt bởi các đối thủ trong và ngoài nước. Trước tình hình này, để có thể giữ vững được vị thế và thị phần của mình trên thị trường bảo hiểm thì doanh nghiệp cần đặt ra cho mình những mục tiêu rõ ràng và chiến lược phát triển cụ thể trong từng thời kỳ, giúp cho doanh nghiệp nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường cũng như trước đối thủ cạnh tranh.
Chính vì vậy em chọn đề tài: “ Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần bảo hiểm Bảo hiểm Bưu Điện (PTI)” cho chuyên đề tốt nghiệp. Chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: đề cập đến một số lý luận cơ bản về cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ.
Chương II: Thực trạng về năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện (PTI).
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh của công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện (PTI).
Chương I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH TRONG KINH
DOANH BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1.1 Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1.1.1 Khái niệm về hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Mỗi cá nhân hay tổ chức tất yếu đều có nhu cầu về sự an toàn, do đó họ luôn tìm cách để bảo vệ mình, những người thân, và những tài sản mà họ đang có trước những biến cố trong cuộc sống có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nhận thức được điều này, còn người từ thời xa xưa đã tổ chức nhiều hình thức có những đặc điểm tương tự như bảo hiểm. Bảo hiểm mới thực sự ra đời đầu tiên là năm 1424, (với công ty bảo hiểm hàng hải). Cho đến nay, bảo hiểm đã phát triển hết sức mạnh mẽ và trở thành lĩnh vực hoạt động tài chính phổ biến ở khắp các nước trên thế giới.
Có thể hiểu kinh doanh bảo hiểm (KDBH) là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) nhằm mục đích sinh lợi, theo đó DNBH chấp nhận rủi ro của bên mua bảo hiểm, trên cơ sở bên mua đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hay bồi thường cho bên mua bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Khái niệm này thể hiện rõ những nội dung sau:
Thứ nhất: KDBH có mục đích kinh tế và lợi nhuận, đây là mục đích mà các DNBH hướng tới . Chỉ có thu được lợi nhuận DNBH mới có thể tồn tại và phát triển được trong điều kiện kinh tế thị trường. Lợi nhuận giúp doanh nghiệp trang trải cho các cá nhân và tổ chức, đồng thời cung cấp vốn cho chính bản thân họ. Mức lợi nhuận cao còn giúp doanh nghiệp duy trì nguồn quỹ dự phòng đủ lớn, hạn chế bớt nhượng tái bảo hiểm và có điều kiện để nâng cao mức thu nhập cho cán bộ nhân viên. Bên cạnh mục tiêu lợi nhuận, DNBH còn phải đáp ứng các nhu cầu của khách hàng, giúp khách hàng ổn định cuộc sống và sản xuất kinh doanh khi có tổn thất và thiệt hại bất ngờ xảy ra đối với họ, đồng thời DNBH còn có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. Ngoài ra, việc xuất hiện hình thức kinh doanh bảo hiểm còn góp phần đảm bảo sự an toàn và ổn định cho xã hội phát triển một cách bền vững.
Thứ hai: Tính chất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là các DNBH chấp nhận rủi ro mà bên tham gia bảo hiểm chuyển giao cho họ, có nghĩa là chấp nhận trả tiền bảo hiểm hay bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Đổi lại, DNBH sẽ thu được phí bảo hiểm, nguồn thu này sẽ hình thành nên quỹ dự trữ, quỹ bồi thường, trang trải các khoản chi phí bảo hiểm khác có liên quan và có lãi. Tuy nhiên, DNBH chỉ chấp nhận bảo hiểm cho những rủi ro xảy ra trong tương lai và có tính bất ngờ không chắc chắn, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người được bảo hiểm…Những đặc trưng của rủi ro được bảo hiểm tự nó nói lên phạm vị mà các nhà bảo hiểm phải xác định và lựa chọn. Điều này cũng ảnh hưởng ít nhiều tới hoạt động kinh doanh của DNBH .
Thứ ba: KDBH thường gắn liền với hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm. Kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lời, theo đó DNBH nhận một khoản phí bảo hiểm khác để cam kết bồi thường cho trách nhiệm đã nhận bảo hiểm. Ngoài ra, kinh doanh tái bảo hiểm còn giúp DNBH mở rộng quan hệ với các bạn hàng, tranh thủ nguồn vốn, kinh nghiệm nắm thêm thông tin, hỗ trợ đào tạo cán bộ…
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Kinh doanh bảo hiểm là ngành kinh doanh dịch vụ đặc biêt, nó có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất: Mức vốn pháp định áp dụng cho các doanh nghiệp bảo hiểm rất lớn, không phải bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào cũng có khả năng tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Ở nước ta hiện nay mức vốn pháp định áp dựng đối với các DNBH phi nhân thọ là 300 tỷ đồng Việt Nam.
Thứ hai: Bảo hiểm còn có ý nghĩa xã hội hết sức to lớn đó là đảm bảo về an toàn tình hình tài chính, giúp cho người tham gia bảo hiểm ổn định về cuộc sống và sản xuất kinh doanh. Do đó, Nhà nước hết sức quan tâm tới lĩnh vực kinh doanh này, thường xuyên kiểm tra, kiểm soát một cách hết sức chặt chẽ, điều này không những giúp đảm bảo lợi ích cho người tham gia bảo hiểm mà còn góp phần ổn định xã hội.
1.2. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.1 Khái niệm về kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
Bảo hiểm phi nhân thọ vẫn được sử dụng như một khái niệm tổng hợp mang ý nghĩa hàm chứa tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại (bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự) và các nghiệp vụ bảo hiểm con người không thuộc bảo hiểm nhân thọ (bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm bệnh tật, ốm đau…). Theo luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam giải thích về thuật ngữ bảo hiểm phi nhân thọ nh sau: “Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ”.
1.2.2. Nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.2.1. Kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm gốc
a. Đặc điểm
Đây là hoạt động cơ bản, là cơ sở cho sự tồn tại của DNBH. Hoạt động này là một quá trình liên hoàn từ khâu cấp đơn cho người tham gia bảo hiểm, thu phí bảo hiểm, theo dõi quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm, giám định tổn thất và giải quyết bồi thờng bảo hiểm.
Doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc theo một số nghiệp vụ, từ đó thu được phí bảo hiểm, và thực hiện chức năng chính của mình đó là tạo lập quỹ tiền tệ từ sự đóng góp của số đông để bù đắp những thiệt hại và tổn thất cho một số ít cá nhân, góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống của người tham gia bảo hiểm.
Quy trình thực hiện hoạt động KDBH gốc bắt đầu từ việc DNBH thông qua mạng lưới đại lý hay các nhân viên khai thác chào bán các dịch vụ bảo hiểm tới từng đối tượng khách hàng có nhu cầu. Khi hai bên đã thống nhất được các điều kiện cơ bản để có thể đi tới ký kết hợp đồng bảo hiểm, thì người có nhu cầu tham gia bảo hiểm sẽ gửi tới DNBH đề nghị hay yêu cầu được cung cấp dịch vụ
3.2.9. Tích cực nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vốn
Các doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi khai thác đựơc để đem đầu tư sinh lời, hiện nay doanh nghiệp bảo hiểm PTI chủ yếu sử dụng nguồn vốn này đem gửi ngân hàng và mua trái phiếu Chính Phủ, hai hình thức này tuy có độ an toàn cao nhưng lại có khả năng sinh lời kém, do đó chưa đem lại những lợi nhuận lớn đựơc cho công ty, vì thế để cho hoật động đầu tư thực sự góp phần nâng cao năng lực tài chính một cách đáng kể cho công ty thì doanh nghiệp cần nghiên cứu cách đầu tư hợp lý hơn:
- Doanh nghiệp cần có chương trình quản lý nguồn vốn: Nguồn vốn của công ty được hình thành chủ yếu bởi phí khai thác được từ các hợp đồng bảo hiểm, lượng tiền này thường là rất lớn và có tính ổn định, tuy nhiên doanh nghiệp không thể sử dụng hết nó mà phải giành phần lớn để chi trả và bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Do đó, doanh nghiệp cần xây dựng chương trình để quản lý việc sử dụng ngân quỹ này một cách hợp lý và hiệu quả. Công ty có hệ thống chi nhánh rộng khắp, tại mỗi chi nhánh lượng tiền tập trung là khá lớn, doanh nghiệp cần qui định một tỷ lệ giữ lại nhất định, phần tiền còn lại sẽ được chuyển nhanh chóng tới tổng công ty để thực hiện các kế hoạch đầu tư tiếp theo. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần chú ý cân nhắc, nếu chi nhánh nào đủ mạnh, có đủ năng lực thì có thể uỷ quyền giao cho một lượng vốn nhất định để chi nhánh đó thực hiện đầu tư sinh lời.
- Doanh nghiệp cần xây dựng các danh mục đầu tư hợp lý : Nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động đầu tư là rất lớn do đó cần nghiên cứu thật kỹ các hình thức đầu tư để sao cho vừa đảm bảo độ an toàn lại có tỷ suất lợi nhuân cao. Nguồn tiền này còn được dùng để chi trả, bồi thường cho khách hàng do đó cần đảm bảo độ an toàn, như hình thức đầu tư trái phiếu, gửi ngân hàng…Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần lựa chọn thêm một số hình thức đầu tư khác để sinh lợi nhuận cao, tăng thu nhập cho công ty như tham ra vào thị trường chứng khoán để mua cổ phiếu của các công ty khác, góp vốn liên doanh, liên kết, cho vay…Doanh nghiệp cũng cần cân nhắc lựa chọn các hình thức đầu tư ngắn hạn, dài hạn khác nhau để đảm bảo khả năng thanh toán khi cần thiết.
- Xây dựng chương trình đánh giá rủi ro của các dự án đầu tư : Trước khi thực hiện đầu tư công ty nên có chương trình đánh giá mức độ rủi ro dự án một cách nghiêm túc và kỹ lưỡng, từ đó có những quyết định nghiêm túc là có đầu tư hay không, hay nếu đầu tư thì với lượng vốn là bao nhiêu, có như vậy mới tránh được những thất bại trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
- Đào tạo chuyên môn cho nhân sự phòng Kế hoạch - đầu tư : trình độ chuyên môn của cán bộ thực hiện đầu tư quyết định đến hiệu quả hoạt động đầu tư , do đó công ty cần có những cán bộ giỏi về chuyên môn, am hiểu các lĩnh vực đầu tư, các luật lệ,tập quấn quốc tế về hoạt động đầu tư…từ đó tăng khả năng thành công của hoạt động đầu tư và nhạy bén hơn trong việc xử lý các tình huống xáu xảy ra trong quá trình đầu tư. Doanh nghiệp cung cần thường xuyên bổ sung, tuyển dụng thêm nhân sự cho phòng Kế hoạch đầu tư khi cần thiết, đồng thời trang bị đầy dủ các máy móc thiết bị phục vụ cho công tác phân tích, thẩm định đánh giá các dự án đầu tư.
- Công ty cũng cần theo dõi sát xao quá tình hình đầu tư trên thị trường để có những điều chỉnh phù hợp trong từng thời kỳ.Chẳng hạn như những biến động về lãi suất hay lạm phát cũng sẽ khiến doanh nghiệp thay đổi chiến lược đầu tư của mình, giúp doanh nghiệp có thể lựa chọn những hình thức đầu tư hợp lý nhất trong từng giai đoạn để tăng hiệu quả hoạt động đầu tư.
Kết luận
Trong những năm qua, công ty Cổ phần bảo hiểm Bưu Điện cũng đã đạt được rất nhiều thành công trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Hiện nay, PTI đang đứng ở vị trí thứ 5 trên thị trường trong lĩnh vực bảo hiểm đang kinh doanh, ngoài việc phát huy thế mạnh là nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật (luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng doanh thu của thị trường), DNBH PTI cũng đã phát triển thêm một số nghiệp vụ bảo hiểm khác và đạt được mức doanh thu rất cao. Tuy nhiên, DNBH PTI vẫn chưa thực sự tạo được niềm tin từ phía khách hàng, nhiều người dân còn cảm giác rất mới mẻ khi nghe tới tên doanh nghiệp này. Hơn nữa trong bối cảnh đất nước ta đang hội nhập mạnh mẽ, có rất nhiều DNBH ra nhập thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, nguy cơ bị thu hẹp về thị phần là rất có thể xảy ra. Vì thế, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường là một mục tiêu mà doanh nghiệp cần hướng tới.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: