Ebenezeer

New Member
Download Nền kinh tế Việt Nam: Câu chuyện thành công hay tình trạng lưỡng thể bất thường

Download Nền kinh tế Việt Nam: Câu chuyện thành công hay tình trạng lưỡng thể bất thường miễn phí





Nếu nhưviệc giảm nghèo được coi là một ưu tiên thì sựkhác biệt rõ rệt về tỷlệgiảm nghèo
phải là một mối quan tâm lớn. Trong 5 năm (1992/1993-1997/1998), tỷlệnghèo giảm từ58%
xuống 37%. Nhưvậy đã giảm được 21%. Trong 4-5 năm sau đó, chỉgiảm thêm được 5%. Tốc
độgiảm nghèo bịchậm đi một phần là do giá một sốnguyên liệu cơbản bịgiảm, song nguyên
nhân lớn nhất vẫn là do giảm sút tốc độtăng trưởng GDP và một kiểu hình phát triển dẫn đến
thu nhập tập trung ởcác thành phốvà có ít việc làm mới so với trước đây. Nếu không có Luật
Doanh nghiệp thì các kết quả đạt được còn ít khảquan hơn nữa. Đểcó lại được sung lực trong
quá trình giảm nghèo, đầu tưtốt hơn vềy tế, giáo dục và cơsởhạtầng phải đi cùng với việc
phân bổvốn đầu tưtốt hơn và nhiều việc làm mới hơn. So với các khoản vay định hướng và
các dựán công trình đặc biệt nhằm giảm nghèo thì cách làm nhưvừa đềcập sẽ đưa được
nhiều người vượt lên trên ranh giới nghèo quốc tếhơn. Điều này đòi hỏi chiến lược tốt hơn
không chỉ ởcấp trung ương mà cả ởcấp địa phương.



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

USD để chi
cho đường sá, trường học, thủy lợi, điện và chợ ở các tỉnh nghèo. Cách làm như vậy sẽ tạo ra tác động
tích cực lớn hơn nhiều đối với sự phát triển vùng và cuộc sống của người nghèo.
Những quyết định đầu tư như dự án vừa nêu sẽ khiến Việt Nam mắc nợ nhiều hơn, tăng trưởng chậm
hơn do chi phí cao và tạo ra ít việc làm hơn. Những quyết định này cần được xem xét lại.
Có thể thấy tác động của sự lưỡng thể bất thường nói trên đối với kiểu hình thu nhập của các
hộ gia đình ở nông thôn và thành thị. Từ năm 1995 đến 2001-2002, thu nhập thực bình quân
đầu người ở nông thôn tăng khoảng 13% trong khi thu nhập ở thành thị tăng 60%. Do ngay từ
đầu thu nhập thành thị đã cao hơn nhiều thu nhập ở nông thôn, mức tăng tuyệt đối trong thu
5 Sẽ có các thời điểm khi giá trị chênh lệch giữa giá dầu thô và dầu lọc cao hơn như trong những tháng đầu năm
2003. Cũng có những thời điểm chênh lệch giá thấp hơn. Tuy vậy, mức trung bình mới là cơ sở cho phân tích
kinh tế.
12
nhập ở thành thị trong giai đoạn này bằng 13 lần mức tăng ở nông thôn.6 Nếu có thêm vốn
cho khu vực tư nhân thì sẽ có thêm việc làm phi nông nghiệp, lao động nông nghiệp sẽ giảm
và diện tích các thửa ruộng sẽ lớn hơn. Do vậy, thu nhập bình quân đầu người sẽ tăng nhanh
hơn. Thay cho việc dùng tiền nhà nước để xây dựng những nhà máy lọc dầu, sản xuất phân
bón, thép, đường và xi măng thâm dụng vốn và có chi phí cao, nên tạo điều kiện cho các công
ty tư nhân tiếp cận với các nguồn vốn lớn hơn qua những kênh ngân hàng hay công ty cho
thuê tài chính. Tương tự, hàng tỷ đô-la đầu tư hạ tầng hiện vẫn bị đưa vào những dự án không
hiệu quả hay có mức chi phí quá cao.
Những phân tích trên giải thích tại sao phải mất 5 đô-la đầu tư chứ không phải chỉ khoảng 3
đô-la để có được 1 đô-la tăng trưởng. Nếu đầu tư thâm dụng vốn được kiềm chế như ở mức
trước đây thì tốc độ tăng trưởng sẽ không chỉ là 5,5% mà là 8% hay còn hơn nữa. Tốc độ
tăng trưởng thấp hơn có nghĩa là sẽ có ít tiến bộ hơn trong giảm nghèo, có thêm sức ép đối
với sự ổn định xã hội vì khi đó việc làm mới và tốt hơn sẽ khó kiếm.
Nếu như việc giảm cùng kiệt được coi là một ưu tiên thì sự khác biệt rõ rệt về tỷ lệ giảm cùng kiệt
phải là một mối quan tâm lớn. Trong 5 năm (1992/1993-1997/1998), tỷ lệ cùng kiệt giảm từ 58%
xuống 37%. Như vậy đã giảm được 21%. Trong 4-5 năm sau đó, chỉ giảm thêm được 5%. Tốc
độ giảm cùng kiệt bị chậm đi một phần là do giá một số nguyên liệu cơ bản bị giảm, song nguyên
nhân lớn nhất vẫn là do giảm sút tốc độ tăng trưởng GDP và một kiểu hình phát triển dẫn đến
thu nhập tập trung ở các thành phố và có ít việc làm mới so với trước đây. Nếu không có Luật
Doanh nghiệp thì các kết quả đạt được còn ít khả quan hơn nữa. Để có lại được sung lực trong
quá trình giảm nghèo, đầu tư tốt hơn về y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng phải đi cùng với việc
phân bổ vốn đầu tư tốt hơn và nhiều việc làm mới hơn. So với các khoản vay định hướng và
các dự án công trình đặc biệt nhằm giảm cùng kiệt thì cách làm như vừa đề cập sẽ đưa được
nhiều người vượt lên trên ranh giới cùng kiệt quốc tế hơn. Điều này đòi hỏi chiến lược tốt hơn
không chỉ ở cấp trung ương mà cả ở cấp địa phương.
Làm theo các tỉnh đã thành công – Một cơ hội
Có lẽ người ta vẫn chưa thấy hết được tầm quan trọng của các chính sách kinh tế khôn ngoan
ở cấp tỉnh. Các tỉnh có các khả năng rất khác nhau trong việc tạo ra tăng trưởng mà không cần
có bao cấp của chính phủ. Một số người lập luận rằng có sự khác biệt như vậy chủ yếu là nhờ
may mắn hay điều kiện địa lý. Ví dụ, chỉ một vài tỉnh làm tốt việc thu hút FDI. Nói chung thì
người ta đều thấy rằng FDI thường tập trung ở một vài nơi, phần lớn là ở hai thành phố lớn là
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) hay xung quanh hai thành phố đó. Trong một
vài trường hợp khác thì địa phương có lượng đầu tư lớn là nhờ vào một vài dự án lớn hay có
được một số tài nguyên thiên nhiên thuận lợi cho việc chế biến thực phẩm hay du lịch. Theo
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thì Hà Nội, TP.HCM và sáu tỉnh lân cận chiếm tới 2/3 số FDI thực
hiện được tích tụ cho đến thời điểm cuối năm 2002.7 Tám tỉnh khác chiếm 12% tổng FDI, như
6 Người ta nói rằng những biện pháp xử lý gần đây đối với người bán rong trên các phố ở Hà Nội một phần cũng
là để hạn chế người dân ở nông thôn vào thành phố. [Bài “Các đường phố gọn ghẽ” trong Tạp chí Kinh tế Viễn
Đông, 29/5/2003, trang 38].
7 Sáu tỉnh, xắp theo số lượng FDI từ cao xuống thấp thì sáu tỉnh khác là: Đồng Nai, Hải Phòng, Bình Dương, Bà
Rịa-Vũng Tàu, Hà Tây và Vĩnh Phúc. Đây là tổng FDI chứ không phải FDI bình quân đầu người.
13
vậy 45 tỉnh còn lại chỉ chiếm 20% tổng vốn FDI.8 Riêng trong năm 2002, mười tỉnh dẫn đầu
đã có lượng FDI chiếm 90% FDI của cả nước. Với thực tế là tính trung bình trên đàu người,
vốn FDI chảy vào chỉ là 10-15 USD/người/năm trong khi tổng lượng đầu tư là 120-150
USD/người/năm, có thể thấy một cách tương đối rõ ràng là đối với phần lớn các tỉnh, dù có
làm tốt thì mỗi năm cũng chỉ thu hút được thêm một vài Đô-la từ các nhà đầu tư nước ngoài.9
Những điều được trình bày trên không có nghĩa là tất cả các tỉnh nên bỏ qua nguồn vốn FDI
hay cho rằng FDI có đến thì cũng chả có ích gì. Những điều đó chỉ có nghĩa là phần
lớn nguồn vốn đầu tư và tăng trưởng không đến từ FDI. Điều này không có gì đáng ngạc
nhiên. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn ở gần một thị trường lớn hay muốn những tiện
nghi của một thành phố lớn. Mặc dù một số nhà đầu tư có thể được thu hút bởi một thắng
cảnh du lịch, bởi hoạt động chế biến nguyên liệu hay bởi một số tài sản đặc thù của địa
phương, nhưng hầu hết những người trong số họ đều muốn đến những vùng đã có các nhà đầu
tư nước ngoài khác hay những nơi lân cận các vùng đó. Long An và Hải Dương có thể hy
vọng thu hút được FDI “lan toả” từ các vùng lân cận, chứ Yên Bái, Nghệ An hay Đồng Tháp
khó có thể hy vọng làm được như vậy. Phần lớn các tỉnh không có được nhiều FDI trong
tương lai gần.
Vậy thì còn có được những gì? Rõ ràng đó là đầu tư tư nhân trong nước - đặc biệt là từ khu
vực tư nhân chính thức. Lượng đầu tư này đã tăng nhanh trong những năm gần đây, đặc biệt
là kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực vào tháng 1 năm 2000. Lượng đầu tư này có tốc độ
tăng trưởng đầy ấn tượng. Tính trung bình thì đầu tư tư nhân chính thức trong nước là ở mức
dưới 2 USD bình quân đầu người vào năm 1997 và trên 3 USD một chút vào năm 1999. Con
số này là 7,4 USD năm 2000, 22 USD năm 2001 và khoảng 25 USD năm 2002. Từ năm 2000
đến năm 2002, có 54.000 doanh nghiệp tư nhân mới đăng ký với số vốn là 4,7 tỷ USD. Như
Ngân hàng Thế giới đã phân tích, đây là một phát triển đầy ấn tượng nhưng cần t...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top