phuong_thuy_892004
New Member
Download Đề tài Nghiên cứu chiết tách một số chất màu thực phẩm từ kinh nghiệm sử dụng thực vật của đồng bào dân tộc thiểu số miễn phí
Xôi là một loại thực phẩm truyền thống, ởcác vùng đồng bằng thường chỉ được
nhuộm màu đỏtừmàng hạt gấc (Momordica cochinchinensis). Việc nhuộm xôi
nhiều màu trước đây chỉgặp thấy ởcác vùng dân tộc thiểu số. Những năm gần
đây xu hướng này bắt đầu xuất hiện ởmột sốthành phốlớn.
Tiến hành thửnghiệm: hòa tan chất màu trong nước nóng cho tan hết, đểnguội và
dùng đểngâm với gạo đã rửa sạch trong 6-10 giờ. Vớt gạo đểcho ráo và cho vào
chõ đồbình thường cho tới chín.
Kết quả: Xôi có các màu (Tím, xanh, vàng) đẹp, tươi, không có mùi vịlạ.
Lưu ý: Độ đậm nhạt của màu sắc tùy thuộc vào thịhiếu
- Tổng hợp các chất vô cơ không có độc tính để nhuộm màu cho thực
phẩm. Đây là hướng nghiên cứu được tiến hành từ lâu. Mặc dù vậy, các
chất vô cơ có thể sử dụng cho thực phẩm còn rất hạn chế. Hiện nay các
chất vô cơ được phép dùng cho thực phẩm mới chỉ có một số oxít sắt:
FeO(OH)xH2O (màu đỏ), FeO.Fe2O3 (màu đen), FeO(OH).xH2O (màu
vàng),…. Xu hướng hiện nay của thế giới là hạn chế dùng các chất nhuộm
màu có nguồn gốc vô cơ trong công nghiệp thực phẩm.
Do những tiêu chuẩn chặt chẽ về mức độ an toàn, cho tới nay thế giới mới chỉ
thừa nhận 73 hợp chất (hay dịch chiết, phức chất) là chất nhuộm màu cho thực
phẩm. Trong số này một số hợp chất chỉ được phép sử dụng trong một số quốc gia
nhất định.
Hiện nay có một số loại cây cho chất nhuộm màu thực phẩm được trồng và khai
thác với số lượng lớn ở một số nước. Một vài sản phẩm trong số đó như "Cutch",
là nước chiết sấy khô của cây Acacia catechu. Lượng sản xuất hàng năm trên thế
giới của Cutch khoảng 6.000 - 9.000 tấn/ năm trong đó lượng được xuất- nhập
khẩu giữa các nước khoảng 1.500 tấn/ năm. Nước sản xuất chính là Ấn Độ (các
nước cũng sản xuất nhưng với số lượng ít hơn là Pakistan, Bangladesh, Myanmar
và Thái lan), nước nhập khẩu chính là Pakistan. Trước đây, vào những năm giữa
của thập kỷ 70, hàng năm các nhà máy công nghiệp của Ấn Độ đã sử dụng tới
63.000 tấn gỗ nguyên liệu. Trong thời gian từ 1988- 1993, Ấn Độ đã xuất sang
Pakistan 1.000- 1.300 tấn/ năm. Ngoài Cutch ra, còn có một sản phẩm tự nhiên
khác cũng được sản xuất và sử dụng với số lượng lớn, đó là Annatto (được lấy từ
cây Điều nhuộm- Bixa orellana). Lượng sản phẩm trên thế giới hàng năm khoảng
10.000 tấn, lượng sản phẩm tham gia mậu dịch khoảng 7.000 tấn. Nước xuất khẩu
chính các sản phẩm Annatto là Peru và Kenya, các nước nhập khẩu chính là Mỹ,
Nhật và một số nước Đông Âu. Một số cây khác được trồng để làm nguyên liệu
sản xuất các chất màu thực phẩm là: Indigofera tinctoria, Tagetes erecta,
21
Lawsonia inermis, Curcuma longa, Crocus sativus, Gardenia jasminoides,
Medicago sativa, ... Riêng ở vùng Andhra Pradesh của Ấn Độ các cây sau được
trồng với số lượng tương đối nhiều: Bixa orellana (1.200 ha), Indigofera tinctoria
(800 ha), Tagetes erecta (120 ha) và Lawsonia inermis (20 ha).
Bên cạnh việc sử dụng các chất màu thu được bằng các cách truyền thống thì
ngày nay người ta còn áp dụng các kỹ thuật hiện đại để tăng nhanh quá trình tổng
hợp tự nhiên. Trên thế giới trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu mới đã áp
dụng công nghệ sinh học trong việc nâng cao sản lượng tổng hợp các chất màu tự
nhiên. Các phương pháp mới chủ yếu dựa vào việc nuôi cấy tế bào các loài thực
vật, vi sinh vật đã xác định là có các thành phần sắc tố được dùng trong công
nghiệp thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm.
Năm 1995, Ajinomoto đã cho ra một phương pháp điều chế màu đỏ tự nhiên bằng
cách nuôi cây mô sần của các cây thuộc chi Aralia (loài cho kết quả tốt nhất là
Aralia cordata). Chất màu này được tổng hợp trong bóng tối, chất màu được tiết
ra môi trường nuôi cấy.
Năm 1995, Kondo T đưa ra phương pháp sản xuất anthraquinone từ một số cây
thuộc họ cà phê (Rubiaceae). Tế bào được nuôi trong môi trường có nguồn Cac
bon (C), muối vô cơ và muối Can xi (Canxi chloride hay Canxi nitrate) với nồng
độ 5- 90mM/l. Lá Rubia akane được cắt thành những mảnh nhỏ và đưa vào một
môi trường nuôi cấy có pH 5,8, các muối vô cơ (3 mM/l CaCL2), vitamin, 2,4- D,
kinetin, đường mía và thạch... Sản lượng lớn anthraquinone được sản xuất ra ở
các nồng độ CaCL2 từ 5- 90 mM/l.
Narisu- Keshohin, 1991 đưa ra phương pháp sản xuất chất màu bằng cách nuôi
cấy mô của lá cây Oải hương (Lavandula angustifolia). Nuôi tế bào trong điều
kiện có ánh sáng thì cho hiệu suất cao hơn. Với phương pháp này sản phẩm được
tạo ra ở dạng vảy lớn với hiệu suất cao.
Phương pháp sản xuất màu đỏ hoa rum bằng nuôi trồng mô sần Hồng hoa
(Carthamus tinctorius), Mitsui- Eng. Shipbldg được đề xuất vào năm 1990. Màu
đỏ hoa rum được điều chế bằng cách nuôi mô sần hoa rum trong môi trường
22
kiềm, chất màu được tiết vào môi trường nuôi cấy. Chất màu này là màu tự nhiên,
có màu sắc đẹp và ổn định .
Các nghiên cứu về chất màu thực phẩm tự nhiên không chỉ được tiến hành đối với
các loài thực vật mà còn được nghiên cứu đối với các tế bào vi sinh vật. Một số
chi được quan tâm nhiều là Aspergillus, Pseudomonas... Năm 1996, Kasenkov O.
I. đưa ra một phương pháp điều chế chất nhuộm thực phẩm màu đỏ từ các nguyên
liệu thực vật. Theo phương pháp này các nguyên liệu thực vật phải được nghiền
nát và tẩy trùng, sau đó ngâm trong môi trường lên men bởi Aspergillus, cuối
cùng chúng được chọn lọc và cô đặc. Nguyên liệu thực vật là thành phần môi
trường để nuôi cấy các loài thuộc chi Trichoderma (tốt nhất là Trichoderma
koningi và Trichoderma longibrachiatum). Sử dụng phương pháp này, môi trường
được đơn giản hoá và hiệu suất chất màu được tăng lên đáng kể. Cùng sử dụng
Pseudomonas để sản xuất ra các sản phẩm màu, House- Food (1991) đã chỉ ra một
số dòng có thể cho ra sản phẩm với hiệu suất cao. Các dòng đó là FERM BP-
2933, FERM BP- 2932. Trong dung dịch nuôi cấy Linsmaier- Skoog nếu có thêm
một loại thực vật nhất định và muối sắt thì chúng có thể cho tới trên 400 ug sản
phẩm/ ml. Chất màu ferropyrimine có thể thu trực tiếp từ môi trường nuôi cấy.
Loài thực vật được chọn có thể thuộc các họ như: Liliaceae, Cruciferae,
Polygonaceae, Leguminosae, Solanaceae và Gesneriaceae.
Sử dụng các chất màu thực phẩm do có quan hệ trực tiếp đến sức khoẻ và tính
mạng con người. Vì vậy ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã ban hành luật về sử
dụng chất màu trong thực phẩm. Trong các Bộ luật về chất màu thực phẩm, các
chất màu có nguồn gốc là sắc tố thực vật (chất mầu tự nhiên) được quy định ưu
tiên. Ví dụ : điều Điều 26 trong Luật sử dụng chất màu của Ấn Độ :
Điều 26: Các chất màu tự nhiên được sử dụng.
Trừ những trường hợp được quy định cụ thể trong bộ luật này, các yếu tố màu tự
nhiên cơ bản sau đây được sử dụng trong các loại thực phẩm.
1. Beta-carotene
2. Beta-apo-8-carotenal
3. Axit Methylester of Beta-apo-8' carotenoic
4. Axit Ethylester of Beta-apo-8' carotenoic
23
5. Canthaxanthin
6. Chlorophyll
7. Riboflavin (Lactoflavin)
8. Caramel
9. Annatto
10. Saffron
11. Curcumin (or turmeric)
Danh mục các chất nhuộm màu thực phẩm trên thế giới được quy đinh chặt chẽ
về Mã số và giới hạn sử dụng. Theo quy định của Liên minh Châu Âu (EU), các
CMTP có mã số từ E100 đến E172. Đây là quy chế được sử dụng rộng rãi trên thế
giới. Tuy nhiên, Australia và một vài nước thuộc khu vực Thái Bình Dương sử
dụng hệ thống Mã số với chữ đầu là A, nhưng ít được sử dụng.
Luật sử dụng chất màu thực phẩm ở châu Âu cũng quy định rõ các sản phẩm màu
được sử dụng trong chế biến thực phẩm. Tuy vậy, mỗi quốc gia có thể có quy
định riêng cho t
Last edited by a moderator: