silly_isaiah

New Member

Download miễn phí Luận văn Nghiên cứu chuỗi cung ứng mặt hàng tôm thẻ chân trắng đông lạnh của công ty cổ phần Nha Trang Seafoods - F17





Hiện nay, việc mua bán trao đổi giữa hộ nông dân và đại lý trong ngành tôm thường chỉ là những thỏa thuận miệng, không có hợp đồng mua bán. Do đó, cũng mang lại nhiều bất lợi cho cả hai bên khi một trong hai không có thiện chí trong giao dịch. Chẳng hạn, hộ nuôi có thể bị ép giá khi vào chính vụ, số lượng nguyên liệu cung cấp trên thị trường vượt cầu, hay đại lý có thể bị chiếm dụng tiền mặt khi ứng trước cho người nuôi, nhưng khi đến lúc thu hoạch, người nuôi lại bán cho một đại lý khác.
Tóm lại, tất cả các công đoạn trong quy trình đều được đại lý cấp 1 thực hiện một cách cẩn thận, an toàn trong đánh bắt, trong bảo quản và vận chuyển tới nơi giao hàng. Đảm bảo nguyên liệu cung cấp cho nhà máy phải đạt độ tươi sống, không biến màu, không nhiễm kháng sinh, kim loại, không tăng trọng quá mức khiến con tôm bị trương, phù. Việc này đòi hỏi đại lý cấp 1 phải có trình độ nhất định. Có như vậy, họ mới thu lời được từ lô hàng đánh bắt.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

hính vụ thì giá không cao so với trái vụ. Nguyên nhân vào chính vụ sản lượng tôm nguyên liệu cung cấp lúc nào cũng nhiều, do đó, thường rơi vào trường hợp cung vượt cầu nên người dân hay bị doanh nghiệp ép giá. Ngược lại, vào thời điểm trái vụ hay vụ thu hoạch chính bị thiên tai, dịch bệnh, sản lượng tôm cung cấp ít, các doanh nghiệp thiếu tôm sản xuất, dẫn đến cạnh tranh gay gắt bằng hình thức nâng mức giá thu mua. Lúc này người dân được hưởng lợi từ việc thu hoạch được giá cao, tuy nhiên con số này không nhiều.
(5) Các yếu tố rủi ro của nghề nuôi tôm
Nghề nuôi tôm là một nghề phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, môi trường. Do đó, mỗi khi thời tiết thay đổi hay có sự tác động từ môi trường sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của người nuôi, chẳng hạn:
- Nếu vụ thu hoạch tôm được mùa, giá bán sẽ thấp do cung vượt cầu và ngược lại nếu mất mùa, giá bán cao. Để hạn chế được rủi ro này thì việc ký kết hợp đồng mua bán trong giao dịch là điều cần thiết.
Đặc tính sinh trưởng và phát triển của con tôm lại phụ thuộc rất lớn vào thời tiết, chỉ cần thời tiết thay đổi là thể bị bệnh. Hơn nữa, nếu môi trường bị ô nhiễm, tôm sẽ nguy cơ lây bệnh hàng loạt và chết rất nhanh mà người nuôi không thể xử lý kịp.
Như vậy, nghề nuôi tôm mặc dù mang lại lợi ích cao cho người nông dân. Tuy nhiên, nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro khiến người nông dân có thể mất trắng. Do vậy, để hạn chế được rủi ro người nông dân phải hết sức cận thận, tuân thủ nghiêm ngặt các yếu tố kỹ thuật kết hợp với kinh nghiệm dân gian và kiến thức thị trường.
(6) Vấn đề quản lý chất lượng vùng nuôi của hộ nông dân
Qua tìm hiểu từ các hộ nuôi tôm cho thấy phần lớn các hộ nông dân đều hiểu biết và rất ý thức về vấn đề chất lượng vùng nuôi, rất ham học hỏi (thường xuyên tham gia các lớp tập huấn về chất lượng của các hiệp hội, các tổ chức khuyến nông khuyến ngư). Tuy nhiên, sự hiểu biết và thực hành lại mâu thuẫn nhau, cụ thể:
Ao nuôi: mặc dù các hộ nuôi tôm đều tuân thủ quy trình làm sạch ao trước khi thả con giống, nhưng chỉ một số hộ nuôi tôm chuyên nghiệp thực hiện đúng tiêu chuẩn. Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của ngành tôm thẻ Việt Nam, lợi ích của nghề nuôi tôm mang lại khá cao và thời gian nuôi ngắn nên đã thu hút được nhiều hộ đầu tư vào nuôi tôm. Họ tự do đào ao nuôi tôm mà không quan tâm tới những quy định, quy hoạch vùng nuôi của nhà nước. Dẫn đến hậu quả một số ao nằm trong vùng không thuận lợi cho nuôi tôm, chất lượng ao không đạt tiêu chuẩn làm cho vụ nuôi không thành công, gây thiệt hại cho bản thân hộ nuôi và cho cả xã hội do những hệ lụy mà nó gây ra cho môi trường.
Vấn đề con giống: ai cũng biết con giống khỏe, sạch bệnh là con giống tốt được sinh ra bởi con tôm bố mẹ khỏe và chỉ có các công ty uy tín, có thương hiệu mới bảo đảm chất lượng như: công ty cổ phần Thái Lan, công ty CP Việt Nam và Công ty Việt – Úc. Tuy nhiên, giá tôm giống tương đối cao (gấp 2 lần so với các trại giống tư nhân). Còn những trại giống tư nhân, con giống của họ không được chọn lọc kỹ, trà trộn nên giá bán thấp hơn so với các tổ chức uy tín. Hơn nữa, trại giống tư nhân rất nhiều, ở đâu có vùng nuôi là ở đó có họ. Do đó, các hộ nuôi nhỏ lẻ thường chọn mua con giống của trại giống tư nhân với mức giá rẻ chỉ bằng ½ giá của cá công ty uy tín. Vì tính tiện lợi và giá rẻ của các trại giống tư nhân đã thu hút được sự lựa chọn của người nuôi. Điều này góp phần làm tăng tính rủi ro cao về bệnh tật và mất mùa cho người nuôi.
Thuốc sử dụng: vì lợi ích cá nhân mà một số hộ nuôi đã sử dụng những loại thuốc kháng sinh cấm và sử dụng không tuân thủ theo chỉ dẫn của ngành. Điển hình vào thời điểm gần đến vụ thu hoạch mà tôm bị bệnh, các hộ nông dân thường dùng thuốc để ngăn chặn và thu hoạch ngay mà không chờ thời gian giải thuốc nhằm hạn chế thiệt hại. Đây chính là nguyên nhân làm cho một số lô hàng của công ty bị nhiễm dư lượng kháng sinh vượt mức cho phép của các thị trường thế giới.
Sự phân bố ao nuôi và công cụ công cụ phục vụ công tác nuôi tôm: theo tiêu chuẩn vùng nuôi của Global GAP, các ao nuôi phải có khoảng cách khá rộng và mỗi ao phải có các công cụ chuyên dùng và ngay cả công nhân cũng phải chuyên biệt để đảm bảo chất lượng nuôi cũng như ngăn chặn sự lây nhiễm bệnh dịnh. Tuy nhiên, trên thực tế, tại các vùng nuôi tôm của nông dân Việt Nam thì rất ít vùng nuôi tôm đảm bảo được điều kiện này. Do đó, việc ngăn chặn sự lây nhiễm bệnh dịch cho các ao của hộ nuôi hiện nay là chưa thực hiện được.
Hệ thống xử lý nước thải: hiện nay, phần lớn quy mô nuôi tôm của các hộ nông dân còn nhỏ lẻ. Thông thường mỗi hộ nuôi từ 3 - 4 ao, thậm chí có hộ nuôi 1- 2 ao. Do vậy, việc đầu tư hệ thống xử lý nước thải chỉ được các trang trại lớn của các tổ chức, hộ nông dân có quy mô lớn đầu tư (khoảng 25%), còn lại, các hộ nuôi nhỏ thường xả nước thải trực tiếp ra môi trường, ra biển (khoảng 75%). Chính sự thiếu ý thức này đã góp phần làm ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước dẫn đến dịch bệnh xuất hiện liên tục trong thời gian gần đây.
cách ghi nhật ký nuôi: hầu như tất cả các hộ nuôi đều có sổ sách ghi chép theo dõi các chi phí và số lượng thức ăn, thuốc sử dụng trong vụ nuôi. Tuy nhiên, lại không ghi chép theo từng ao riêng biệt. Dó đó thông tin cung cấp không được chính xác, gây khó khăn cho công tác truy xuất nguồn gốc.
Tóm lại: vấn đề quản lý chất lượng ao nuôi của người nông dân còn rất nhiều tồn tại. Đặc biệt, là sự hiểu biết về vấn đề kiểm soát dịch bệnh, đảm bảo nuôi an toàn còn kém, chỉ mang tính khẩu hiệu. Cụ thể, đó là sự liều lĩnh mạo hiểm trong việc nuôi tôm trái vụ. Một số hộ nuôi do muốn thu hoạch được tôm trái vụ có giá cao nên đã không ngại vấn đề thời tiết mà tiến hành thả con giống ngay sau khi thu hoạch vụ 2 năm 2009, họ tính toán đầu năm 2010 sẽ thu hoạch được giá cao, nhưng họ đã không lường hết được sự diễn biến thất thường của thời tiết, hậu quả là nhiều hộ nuôi tôm đầu năm 2010 đã bị mất trắng. Dẫn đến sự mất cân đối trên thị trường nguyên liệu đầu năm 2010: nông dân mất mùa, doanh nghiệp dự báo sai, thiếu nguyên liệu sản xuất hay chấp nhận sản xuất lỗ vì đã ký hợp đồng với đối tác. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng chưa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, người dân vẫn nuôi tôm một cách ào ạt, không kiểm soát được chất lượng môi trường, xả nước thải không qua hệ thống xử lý một cách công khai, không tạo được mối liên kết chặt chẽ giữa người nuôi tôm với các doanh nghiệp chế biến để đảm bảo đầu ra cho hộ nông dân.
2.4.2 Đại lý thu mua
Hộ nuôi tôm
Đại lý thu mua cấp 2
Đại lý thu mua cấp 1
10%
90%
Cơ sở sản xuất đá
Nhà máy chế biến
Sơ đồ 2.4: Đại lý thu mua và các mối quan hệ trực tiếp
Đặc điểm chung: thông thường trong nghề thu mua tôm thì có hai dạng đại lý tồn tại và ph
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Nghiên cứu các nhân tố tác động đến việc hoàn thiện chuỗi cung ứng xuất khẩu cá tra từ đồng bằng Sông Cửu Long đến thị trường Mỹ La Tinh Luận văn Kinh tế 0
B Nghiên cứu thiết kế chuỗi polypeptide có khả năng ức chế độc tố thần kinh α - CBTX của nọc rắn hổ mang đất (naja kaouthia) bằng phần mềm discovery studio Khoa học Tự nhiên 0
S Đánh giá tác động đầu tư Quỹ thách thức Việt Nam: Trường hợp nghiên cứu Chuỗi giá trị Bò H’Mong Cao Bằng Luận văn Luật 0
T Nghiên cứu hệ thống thông tin sợi quang WDM sử dụng các EDFA mắc chuỗi, nâng cao chất lượng tín hiệu tuyến Hà Nội – Vinh Khoa học kỹ thuật 2
T Nghiên cứu chuỗi cung ứng mặt hàng cá Tra-Basa của công ty cổ phần Nam Việt Tài liệu chưa phân loại 0
S Phân tích chuỗi cung ứng sản phẩm hoa Lily tại Viện nghiên cứu Rau quả thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
H Nghiên cứu về đo lường sức khỏe thương hiệu của chuỗi cửa hàng thực phẩm an toàn tiện lợi Co.op Food hiện tại TP HCM Tài liệu chưa phân loại 2
H Nghiên cứu chuỗi cung ứng của mặt hàng cá tra, cá basa tại công ty cổ phần Nam Việt Tài liệu chưa phân loại 2
R Nghiên cứu thực trạng bệnh Thalassemia tại bệnh viện Trẻ em Hải Phòng Y dược 0
N Nghiên cứu thực trạng thiếu máu nhược sắc ở trẻ em dưới 10 tuổi tại bệnh viện Y dược 1

Các chủ đề có liên quan khác

Top