Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Mục lục
Phần I. Hàn Quốc
I.Giới thiệu về Hàn Quốc
1.1. Đất nước - con người
1.2.Chính trị
1.3.Kinh tế
II.Mô hình Chaebol Hàn Quốc
2.1.Khái niệm
2.2.Lịch sử hình thành và phát triển của Chaebol
2.3. Đặc điểm Chaebol
III. Ưu nhược điểm và tác động của Chaebol tới nền kinh tế Hàn Quốc
3.1.Chế độ tập trung hoá và tính hình thức cao trong việc ra quyết định
3.2.Vị trí độc quyền trong nước
3.3.Khuynh hướng đa dạng hoá của Chaebol
IV. Đánh giá hoạt động của mô hình Chaebol từ sau khủng hoảng năm 1997
4.1.Những thành tựu đạt được sau cải tổ
4.1.1.Về cơ cấu kinh doanh
4.1.2.Về cơ cấu vốn
4.1.3.Về quản lý công ty
4.2.Những tồn tại chủ yếu
4.2.1.Trên phương diện vĩ mô
4.2.2.Trên phương diện vi mô
4.3.Tình hình hiện nay
4.3.1.Nguy cơ tan rã
4.3.2.Cơ cấu sở hữu thay đổi
4.3.3.Chaebol thâm nhập vào các ngành, lĩnh vực kinh doanh khác
Phần II. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
I.Khả năng vận dụng kinh nghiệm Hàn Quốc trong việc quản lý các tổng công ty theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam
1.1.Bài học kinh nghiệm thực tiễn từ việc cải tổ Chaebol
1.1.1. Định hướng lại vai trò của chính phủ - một điều kiện then chốt cho thành công của cải tổ
1.1.2. Đảm bảo tính ổn định và nhất quán của chính sách
1.1.3.Chính phủ cần tạo dựng được sự đồng thuận cao trong giới kinh doanh và xã hội đối với công cuộc cải tổ
1.1.4.Tăng cường tính rõ ràng và mềm dẻo trong việc hoạch định chính sách
1.1.5.Tiếp tục tạo dựng môi trường vĩ mô thuận lợi cho khu vực tổng công ty
1.2.Khả năng vận dụng bài học kinh nghiệm Hàn Quốc vào quản lý các tổng công
ty Việt Nam
1.2.1.Tổng quan về các tổng công ty Việt Nam hiện nay
1.2.2.Vận dụng vào Việt Nam
II.Sự phù hợp của mô hình Chaebol vào Việt Nam
Từ viết tắt
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
NICs: Các nước công nghiệp mới
OECD: Hợp tác kinh tế và phát triển
IMF: Quỹ tiền tệ thế giới
CEO: Lãnh đạo cấp cao
GDP: Tổng sản phẩm quốc dân
PPP: Sức mua tương đương
AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
ACFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
FTC: Uỷ ban thương mại Hàn Quốc
Lời mở đầu
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới đã đánh dấu một bước mới quan trọng cho sự phát triển kinh tế nước nhà. Cơ hội mở ra cho các doanh nghiệp trong nước là rất rộng lớn, nhưng bên cạnh đó cũng đặt ra nhiều thách thức. Tham gia sân chơi chung, bản thân các doanh nghiệp phải nỗ lực không ngừng, phải tự hoàn thiện mình chứ không thể trông chờ vào sự bảo hộ, giúp đỡ từ phía nhà nước. Một thành phần kinh tế giữ vai trò quan trọng về phía các doanh nghiệp là các tổng công ty lớn, mà hiện nay đa phần là tổng công ty nhà nước. Không nằm ngoài xu hướng phát triển chung, các doanh nghiệp này muốn phát triển thành tập đoàn kinh tế lớn mạnh thì phải học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước để cải cách có hiệu quả.
Hàn Quốc là một nước láng giềng xa của Việt Nam trong khu vực Châu Á nhưng những bài học về cải tổ mô hình tập đoàn gia đình của họ - các Chaebol thì không hề xa lạ với thực trạng tổng công ty của ta. Hàn Quốc hiện là một trong 30 nước OECD với thu nhập bình quân đầu người cao ( hơn 16.000 USD) và tốc độ tăng trưởng khá ổn định ( 3 - 4%/ năm). Đạt được thành tựu ấy phải kể đến vai trò rất lớn của các Chaebol và một chính phủ rất năng động. Sự kết hợp chặt chẽ hai yếu tố: doanh nghiệp và chính phủ mà chính phủ vẫn giữ vai trò kiểm soát là biện pháp tỏ ra khá hữu hiệu để đưa nền kinh tế Hàn Quốc đi lên. Nhìn vào thành công của Hàn Quốc và ngẫm lại thực trạng của mình là một điều cần thiết. Để làm được những kỳ tích mà Hàn Quốc đã làm được, chính phủ Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam còn phải học hỏi nhiều những kinh nghiệm của người đi trước. Thiết nghĩ, để tìm ra lối đi cho các tổng công ty với mong ước phát triển thành tập đoàn lớn mạnh thì việc nên làm là nghiên cứu mô hình Chaebol Hàn Quốc, tìm ra những ưu điểm và nét tương đồng để vận dụng linh hoạt và tránh những nhược điểm mà họ đã mắc phải.
Nhận thấy tính cấn thiết của vấn đề, chúng em đã nghiên cứu đề tài " Nghiên cứu mô hình Chaebol Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho các Tập đoàn kinh tế Việt Nam" nhằm hiểu rõ hơn về các Chaebol Hàn Quốc và tổng công ty nước ta trong xu hướng toàn cầu hoá.
I.Giới thiệu về Hàn Quốc
1.1.Đất nước - con người
Sau hơn bốn thập kỷ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, Hàn Quốc đã đạt được nhiều thành tựu đáng kinh ngạc và được cả thế giới biết đến như " Kỳ tích trên sông Hàn". Hơn 48 triệu người dân Hàn Quốc hoàn toàn có quyền tự hào về những gì đất nước mình làm được, từ một quốc gia nông nghiệp cùng kiệt vươn lên một tầm cao mới với vị thế một trong bốn con hổ Châu Á và một trong 24 nước OECD.
Hàn Quốc tên chính thức là Đại Hàn Dân Quốc nằm trên bán đảo Triều Tiên - trải dài 1000km từ Bắc tới Nam ở phần Đông Bắc lục địa Châu Á. Phía bắc Hàn Quốc giáp với cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, phía đông giáp với biển Đông (biển Nhật Bản), phía nam và đông nam giáp với eo biển Triều Tiên - ngăn cách Hàn Quốc với Nhật Bản, và phía tây giáp với Hoàng Hải. Thủ đô Seoul là thành phố lớn nhất tập trung nhiều dân cư, đồng thời là trung tâm kinh tế của cả nước.
Diện tích 99.382km2, trong đó có vô số đảo nhỏ ngoài khơi phía Nam và phía tây. Đảo lớn nhất trong số này là đảo Cheju (1845 km2). Nổi tiếng với nhiều dòng sông và ngọn núi kỳ vĩ, người Hàn thường ví đất nước mình như một tấm gấm thêu đẹp đẽ. Đỉnh cao nhất của Hàn Quốc là Halla-san, cao 1950 mét nằm trên đảo Cheju. Thủ đô Seoul là trái tim của Hàn Quốc có con sông Hangang dài 494km chạy qua, được coi là con đường sinh mệnh giúp cho sự phát triển của đất nước.
Hàn Quốc có bốn mùa rõ rệt, mùa hè nóng ẩm, còn mùa đông lạnh và khô hanh. Nhiệt độ bình quân khoảng từ 6 độ C đến 16 độ C. Mùa thù là khoảng thời gian dễ chịu nhất trong năm vì nhiệt độ mát mẻ và bầu trời luôn trong xanh.
Dân số Hàn Quốc theo số liệu tháng 6 năm 2006 là 48.846.823 người. Những năm gần đây tỷ lệ gia tăng dân số đã giảm xuống đáng kể. Năm 2005 tỷ lệ này là là 0,44% so với 3% của những năm 1960. Ước tính đến năm 2020 tỷ lệ gia tăng dân số sẽ giảm xuống chỉ còn 0,01%. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và của phụ sản giảm mạnh. Tuổi thọ trung bình của người dân Hàn Quốc được cải thiện đáng kể. Năm 1960 tuổi thọ nam giới là 51, nữ giới là 54. Đến năm 2000, tuổi thọ trung bình nam giới là 74,4 và của nữ giới là 81,2.Tuy nhiên tháp dân số của Hàn Quốc có xu hướng hình chuông vì tỷ lệ sinh thấp và tuổi thọ trung bình kéo dài. Xu hướng này giống với các nước phát triển.
Phần lớn người dân Hàn Quốc đều có tín ngưỡng tôn giáo. Trong số 51% những người theo tôn giáo thì 49% theo đạo Phật, 49% theo Kitô giáo, 1% là tín đồ đạo Khổng, còn lại là tôn giáo khác. Các giá trị đạo Khổng ngày nay vẫn ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống thường ngày của người dân xứ Hàn, người con trai cả đảm nhận trách nhiệm trụ cột trong gia đình. Thêm vào đó tâm lý trọng nam cũng vẫn khá phổ biến ở Hàn Quốc.
Trong thành phần dân cư Hàn Quốc thì người Triều Tiên chiếm đại đa số. Dân tộc thiểu số duy nhất là bộ phận nhỏ người Hoa.
Nhờ kinh tế phát triển nên chể độ ăn uống và chăm sóc y tế đều được cải thiện. Trong những năm gần đây, ngân sách dành cho Bộ Y Tế và Phúc lợi đã tăng lên. Năm 2005, ngân sách Chính phủ dành cho Bộ Y Tế lên tới 8906 tỷ won ( tương đương 9,2 tỷ USD). Tỷ lệ chi cho y tế trong chi tiêu toàn hộ gia đình cũng tăng theo. Năm 2003 chi tiêu cho y tế bình quân đầu người là 840.133 won, tăng gần 10 lần so với chi năm 1985 chỉ là 85.000 won.
1.2.Chính Trị
Dù ngày nay là một nước cộng hoà nhưng suốt chiều dài lịch sử, Hàn Quốc đã trải qua nhiều năm tháng dưới chế độ độc tài hay phi dân chủ. Chỉ mãi đến cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, các nguyên tắc dân chủ mới bắt đầu được tôn trọng. Người đứng đầu nước là tổng thống do dân trực tiếp bầu ra năm năm một lần và chỉ được giữ một nhiệm kỳ duy nhất. Tổng thống là người hoạch định chính sách và người làm luật chủ yếu. Tổng thống hiện nay của Hàn Quốc là ông Roh Moo-hyun ( Lỗ Vũ Huyền).
1.3.Kinh tế
Nền kinh tế Hàn Quốc là một nền kinh tế thị trường trong đó nhà nước đóng một vai quan trọng.
Nếu cách đây 30 năm tổng sản phẩm quốc nội của Hàn Quốc chỉ đứng ngang với với các nước cùng kiệt ở Châu Phi và Châu Á thì hiện nay, tổng sản phẩm quốc nội của Hàn Quốc xếp thứ 10 trên thế giới. Năm 2005 GDP danh nghĩa của Hàn Quốc ước đạt khoảng 789 tỷ USD, GDP tính theo sức mua tương đương (PPP) ước đạt khoảng 1.097 tỷ USD.
những vấn đề về mặt xã hội. Các Chaebol làm như vậy để tạo ra áp lực đối với chính phủ trong việc yêu cầu chính phủ thực hiện các chính sách có lợi cho họ. Do chính phủ không kiểm soát được khu vực tư nhân, nên trong một số trường hợp chính phủ phải chấp nhận những yêu cầu của các Chaebol, làm cho công cuộc cải tổ không đạt được những mục tiêu đã đặt ra. Thực tiễn này của Hàn Quốc cho thấy, để nhà nước có thể nắm được quyền kiểm soát đối với các tập đoàn, nhằm phát huy các tác dụng tích cực của chúng đến sự phát triển nền kinh tế đất nước, nhà nước cần giữ tỷ lệ cố phần khống chế. Sau khi thực hiện cổ phần hoá các tổng công ty và hình thành nên các tập đoàn, để có thể tiếp tục giữ được tỷ lệ cổ phiếu khống chế nhằm duy trì quyền kiểm soát đối với tập đoàn, nhà nước cần tiếp tục đầu tư vốn vào các tập đoàn, nhà nước cần tiếp tục đầu tư vốn vào các tập đoàn trong quá trình mở rộng quy mô vốn của chúng. Nếu nhà nước không tiếp tục mua cổ phần thì tỷ trọng cố phiếu của nhà nước sẽ suy giảm, và như vậy, việc đánh mất quyền kiểm soát của mình.
I.Sự phù hợp của mô hình chaebol ở Việt Nam
Về cơ bản, các tổng công ty Việt Nam và Chaebol Hàn Quốc có điểm giống nhau là được nhà nước bảo hộ. Nhưng khác với các Chaebol đã phát huy được hiệu quả kinh tế của mình khi đóng vai trò là đầu tàu kéo nền kinh tế Hàn Quốc tăng trưởng thần kỳ thì các tổng công ty Việt Nam lại thể hiện tính kém hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt này, chủ yếu là do vai trò của Chính phủ. Quá trình công nghiệp hoá của Hàn Quốc là quá trình gắn liền với sự lớn mạnh của các Chaebol là các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn chịu sự chi phối chặt chẽ của chính phủ, chính phủ luôn giữ vai trò người chủ động trong điều tiết, kiểm soát tình hình kinh tế. Còn ở Việt Nam, các tổng công ty hầu hết là trực thuộc nhà nước và vừa mới được cải cách trong giai đoạn gần đây sau một thời gian dài nền kinh tế quan liêu, bao cấp. Sau cải cách năm 1986 đến nay nước ta mới thực sự có một sân chơi cho các doanh nghiệp. So với Hàn Quốc, quá trình công nghiệp hoá của nước ta bắt đầu muộn hơn rất nhiều, do đó tổng công ty của ta so với Chaebol Hàn Quốc cũng có một khoảng cách khá xa. Việc tiến tới thành lập và phát triển về số lượng các tập đoàn kinh tế Việt Nam với mong ước có thể gây được sức ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế và có tiếng vang trên trường quốc tế là điều khó đạt được trong thời gian ngắn như những mục tiêu kinh tế mà Đảng và Nhà nước đặt ra.
Từ sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới, doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường, với mức thuế đã được cắt giảm, hàng hoá xuất khẩu không bị phân biệt đối xử. Điều này tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu, kết quả khả quan là trong 7 tháng đầu năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 26,79 tỷ USD tăng 19.6%. Dự báo kim ngạch xuất khẩu trong quý III sẽ đạt khoảng 13 tỷ USD, tăng 25,48% so với cùng kỳ năm 2006 và bằng 27, 8% kế hoạch cả năm. Nhưng trong giai đoạn đầu doanh nghiệp Việt Nam có thể sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, xuất xứ sản phẩm thể hiện qua các vụ kiện phá giá nhắm vào các doanh nghiệp xuất khẩu như vụ cá tra, cá basa năm 2002, thuỷ sản, giày dép... Đến năm 2004, Việt Nam phải đối phó với 7 vụ kiện liên tiếp liên quan đến nhiều mặt hàng xuất khẩu. Như chúng ta đã biết, mô hình chaebol được hình thành chủ yếu trong giai đoạn thập niên 1960, nó được sự bảo hộ mạnh mẽ của chính phủ Hàn Quốc như ưu đãi cho vay với mức lãi suất thấp, bảo đảm cho các khoản nợ nước ngoài, bảo vệ hàng sản xuất trong nước,lên các kế hoạch phát triển kinh tế. Trong khi đó với tình hình Việt Nam hiện nay, khi đã trở thành thành viên của WTO thì Việt Nam không thể bảo hộ như chính Phủ Hàn Quốc đã thực hiên trước đây. Không những thế chúng ta còn phải cắt giảm thuế quan theo hiệp định khi gia nhập WTO. Ngoài ra còn phải cắt giảm thuế và chính sách trợ cấp để tham gia các khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA); khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc (ACFTA) và khu vực mậu dịch tự do ASEAN với các đối tác khác ( Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc-New Zealand). Từ lúc áp dụng thuế nhập khẩu theo CEPT/AFTA, Việt Nam luôn nhập siêu từ ASEAN. Ngoài tính cạnh tranh cao về chất lượng mẫu mã, hàng hoá thì các sản phẩm của Singapore, Malaysia, Thái Lan... đã tràn vào thị trường VN một phần nhờ thuế suất ưu đãi từ 0-5% khi chứng minh được nguyên vật liệu sản xuất có 40% nguồn gốc từ các nước ASEAN ( bình thường thuế suất này là 70%). Thêm vào đó theo cam kết gia nhập WTO đến năm 2009, thì các doanh nghiệp nước ngoài sẽ được thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam. Khi đó, thì các doanh nghiệp trong nước càng gặp nhiều khó khăn hơn trong việc chiếm lĩnh thị trường nội địa và có thể rất nhiều doanh nghiệp mà năng lực cạnh tranh yếu sẽ bị phá sản. Trong môi trường cạnh tranh mới, nhà nước không thể bảo hộ cho các doanh nghiệp về vốn và những điều kiện ưu đãi khác mà chỉ có thế hỗ trợ doanh nghiệp trong việc xây dựng hệ thống pháp luật minh bạch, cơ chế hỗ trợ cạnh tranh, tư vấn và kiểm tra việc thực hiện chính sách chống gian lận thương mại.
Hiệu quả của mô hình Chaebol là không thể phủ nhận, nhưng học tập theo mô hình đó và áp dụng vào tình hình thực tiễn hiện nay của nước ta thì không phù hợp. Vậy Việt Nam nên cải tổ hay đổi mới các tổng công ty như thế nào để vẫn có các tập đoàn lớn mạnh và vẫn phù hợp với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thị trường và với định hướng xã hội chủ nghĩa? Hiện nay Việt Nam chưa có tập đoàn kinh tế đúng nghĩa. Về 8 tập đoàn kinh tế nhà nước : Bưu chính - Viễn thông, Than - Khoáng sản, Dầu khí, Điện lực, Công nghiệp tàu thuỷ, Dệt may, Cao su, Tài chính - bảo hiểm, thì theo ông Nguyễn Trọng Dũng ( Phó Vụ trưởng Vụ Đổi mới doanh nghiệp, Văn phòng chính phủ) cho hay, đây chỉ là việc: “Thủ tướng phê duyệt các đề án thí điểm tập đoàn kinh tế trên cơ sở Tổng Cty Nhà nước quy mô lớn và các đề án này đang được triển khai thực hiện”. Theo ông Trần Tiến Cường (Trưởng Ban doanh nghiệp, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế T.Ư), việc phê duyệt đề án hay thành lập Cty mẹ - Tập đoàn mới chỉ là sự khởi đầu của một quá trình mà chưa phải là đã thành tập đoàn kinh tế. Bên cạnh đó, sau khi nêu ra “tên tuổi” của một số mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân tiêu biểu (Đồng Tâm, Kinh Đô, Hòa Phát, Hoàng Anh Gia Lai, Vincom, Trung Nguyên...), ông Lê Khắc Hiệp (Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Cty cổ phần Vincom) nhấn mạnh rằng: “Các tập đoàn kinh tế tư nhân hiện nay, nhìn chung, buộc phải mang cái tên không chính danh là Cty cổ phần tập đoàn, hay Cty trách nhiệm hữu hạn tập đoàn. Như vậy, trên thực tế về pháp lý mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân cho đến nay vẫn chưa được thừa nhận”. Thời gian gần đây xã hội xôn xao về việc " bình mới - rượu cũ" trong việc cổ phần hoá các công ty nhà nước. Nhìn bề ngoài thì nhà nước khuyến khích tư nhân tham gia vào sở hữư cổ phần của các doanh nghiệp này, tất nhiên nhà nước vẫn nắm đa số cổ phần (ít nhất là hơn 51%). Hiện tượng này gây ra việc mua bán, đầu cơ cổ phiếu của các giám đốc, cổ đông lớn trong doanh nghiệp mà không khuyến khích những đối tượng mới, người ngoài doanh nghiệp tham gia thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vì đa số cổ phiếu vẫn nằm trong tay những người cũ.
Tóm lại Chính phủ và các tập đoàn ở Việt Nam hiện nay còn phải quan sát, học hỏi và nỗ lực nhiều trên con đường tìm cho mình một cái tên theo đúng nghĩa và làm ăn có hiệu quả xứng với cái tên Tập Đoàn Kinh Tế.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Mục lục
Phần I. Hàn Quốc
I.Giới thiệu về Hàn Quốc
1.1. Đất nước - con người
1.2.Chính trị
1.3.Kinh tế
II.Mô hình Chaebol Hàn Quốc
2.1.Khái niệm
2.2.Lịch sử hình thành và phát triển của Chaebol
2.3. Đặc điểm Chaebol
III. Ưu nhược điểm và tác động của Chaebol tới nền kinh tế Hàn Quốc
3.1.Chế độ tập trung hoá và tính hình thức cao trong việc ra quyết định
3.2.Vị trí độc quyền trong nước
3.3.Khuynh hướng đa dạng hoá của Chaebol
IV. Đánh giá hoạt động của mô hình Chaebol từ sau khủng hoảng năm 1997
4.1.Những thành tựu đạt được sau cải tổ
4.1.1.Về cơ cấu kinh doanh
4.1.2.Về cơ cấu vốn
4.1.3.Về quản lý công ty
4.2.Những tồn tại chủ yếu
4.2.1.Trên phương diện vĩ mô
4.2.2.Trên phương diện vi mô
4.3.Tình hình hiện nay
4.3.1.Nguy cơ tan rã
4.3.2.Cơ cấu sở hữu thay đổi
4.3.3.Chaebol thâm nhập vào các ngành, lĩnh vực kinh doanh khác
Phần II. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
I.Khả năng vận dụng kinh nghiệm Hàn Quốc trong việc quản lý các tổng công ty theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam
1.1.Bài học kinh nghiệm thực tiễn từ việc cải tổ Chaebol
1.1.1. Định hướng lại vai trò của chính phủ - một điều kiện then chốt cho thành công của cải tổ
1.1.2. Đảm bảo tính ổn định và nhất quán của chính sách
1.1.3.Chính phủ cần tạo dựng được sự đồng thuận cao trong giới kinh doanh và xã hội đối với công cuộc cải tổ
1.1.4.Tăng cường tính rõ ràng và mềm dẻo trong việc hoạch định chính sách
1.1.5.Tiếp tục tạo dựng môi trường vĩ mô thuận lợi cho khu vực tổng công ty
1.2.Khả năng vận dụng bài học kinh nghiệm Hàn Quốc vào quản lý các tổng công
ty Việt Nam
1.2.1.Tổng quan về các tổng công ty Việt Nam hiện nay
1.2.2.Vận dụng vào Việt Nam
II.Sự phù hợp của mô hình Chaebol vào Việt Nam
Từ viết tắt
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
NICs: Các nước công nghiệp mới
OECD: Hợp tác kinh tế và phát triển
IMF: Quỹ tiền tệ thế giới
CEO: Lãnh đạo cấp cao
GDP: Tổng sản phẩm quốc dân
PPP: Sức mua tương đương
AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
ACFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
FTC: Uỷ ban thương mại Hàn Quốc
Lời mở đầu
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới đã đánh dấu một bước mới quan trọng cho sự phát triển kinh tế nước nhà. Cơ hội mở ra cho các doanh nghiệp trong nước là rất rộng lớn, nhưng bên cạnh đó cũng đặt ra nhiều thách thức. Tham gia sân chơi chung, bản thân các doanh nghiệp phải nỗ lực không ngừng, phải tự hoàn thiện mình chứ không thể trông chờ vào sự bảo hộ, giúp đỡ từ phía nhà nước. Một thành phần kinh tế giữ vai trò quan trọng về phía các doanh nghiệp là các tổng công ty lớn, mà hiện nay đa phần là tổng công ty nhà nước. Không nằm ngoài xu hướng phát triển chung, các doanh nghiệp này muốn phát triển thành tập đoàn kinh tế lớn mạnh thì phải học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước để cải cách có hiệu quả.
Hàn Quốc là một nước láng giềng xa của Việt Nam trong khu vực Châu Á nhưng những bài học về cải tổ mô hình tập đoàn gia đình của họ - các Chaebol thì không hề xa lạ với thực trạng tổng công ty của ta. Hàn Quốc hiện là một trong 30 nước OECD với thu nhập bình quân đầu người cao ( hơn 16.000 USD) và tốc độ tăng trưởng khá ổn định ( 3 - 4%/ năm). Đạt được thành tựu ấy phải kể đến vai trò rất lớn của các Chaebol và một chính phủ rất năng động. Sự kết hợp chặt chẽ hai yếu tố: doanh nghiệp và chính phủ mà chính phủ vẫn giữ vai trò kiểm soát là biện pháp tỏ ra khá hữu hiệu để đưa nền kinh tế Hàn Quốc đi lên. Nhìn vào thành công của Hàn Quốc và ngẫm lại thực trạng của mình là một điều cần thiết. Để làm được những kỳ tích mà Hàn Quốc đã làm được, chính phủ Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam còn phải học hỏi nhiều những kinh nghiệm của người đi trước. Thiết nghĩ, để tìm ra lối đi cho các tổng công ty với mong ước phát triển thành tập đoàn lớn mạnh thì việc nên làm là nghiên cứu mô hình Chaebol Hàn Quốc, tìm ra những ưu điểm và nét tương đồng để vận dụng linh hoạt và tránh những nhược điểm mà họ đã mắc phải.
Nhận thấy tính cấn thiết của vấn đề, chúng em đã nghiên cứu đề tài " Nghiên cứu mô hình Chaebol Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho các Tập đoàn kinh tế Việt Nam" nhằm hiểu rõ hơn về các Chaebol Hàn Quốc và tổng công ty nước ta trong xu hướng toàn cầu hoá.
I.Giới thiệu về Hàn Quốc
1.1.Đất nước - con người
Sau hơn bốn thập kỷ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, Hàn Quốc đã đạt được nhiều thành tựu đáng kinh ngạc và được cả thế giới biết đến như " Kỳ tích trên sông Hàn". Hơn 48 triệu người dân Hàn Quốc hoàn toàn có quyền tự hào về những gì đất nước mình làm được, từ một quốc gia nông nghiệp cùng kiệt vươn lên một tầm cao mới với vị thế một trong bốn con hổ Châu Á và một trong 24 nước OECD.
Hàn Quốc tên chính thức là Đại Hàn Dân Quốc nằm trên bán đảo Triều Tiên - trải dài 1000km từ Bắc tới Nam ở phần Đông Bắc lục địa Châu Á. Phía bắc Hàn Quốc giáp với cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, phía đông giáp với biển Đông (biển Nhật Bản), phía nam và đông nam giáp với eo biển Triều Tiên - ngăn cách Hàn Quốc với Nhật Bản, và phía tây giáp với Hoàng Hải. Thủ đô Seoul là thành phố lớn nhất tập trung nhiều dân cư, đồng thời là trung tâm kinh tế của cả nước.
Diện tích 99.382km2, trong đó có vô số đảo nhỏ ngoài khơi phía Nam và phía tây. Đảo lớn nhất trong số này là đảo Cheju (1845 km2). Nổi tiếng với nhiều dòng sông và ngọn núi kỳ vĩ, người Hàn thường ví đất nước mình như một tấm gấm thêu đẹp đẽ. Đỉnh cao nhất của Hàn Quốc là Halla-san, cao 1950 mét nằm trên đảo Cheju. Thủ đô Seoul là trái tim của Hàn Quốc có con sông Hangang dài 494km chạy qua, được coi là con đường sinh mệnh giúp cho sự phát triển của đất nước.
Hàn Quốc có bốn mùa rõ rệt, mùa hè nóng ẩm, còn mùa đông lạnh và khô hanh. Nhiệt độ bình quân khoảng từ 6 độ C đến 16 độ C. Mùa thù là khoảng thời gian dễ chịu nhất trong năm vì nhiệt độ mát mẻ và bầu trời luôn trong xanh.
Dân số Hàn Quốc theo số liệu tháng 6 năm 2006 là 48.846.823 người. Những năm gần đây tỷ lệ gia tăng dân số đã giảm xuống đáng kể. Năm 2005 tỷ lệ này là là 0,44% so với 3% của những năm 1960. Ước tính đến năm 2020 tỷ lệ gia tăng dân số sẽ giảm xuống chỉ còn 0,01%. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và của phụ sản giảm mạnh. Tuổi thọ trung bình của người dân Hàn Quốc được cải thiện đáng kể. Năm 1960 tuổi thọ nam giới là 51, nữ giới là 54. Đến năm 2000, tuổi thọ trung bình nam giới là 74,4 và của nữ giới là 81,2.Tuy nhiên tháp dân số của Hàn Quốc có xu hướng hình chuông vì tỷ lệ sinh thấp và tuổi thọ trung bình kéo dài. Xu hướng này giống với các nước phát triển.
Phần lớn người dân Hàn Quốc đều có tín ngưỡng tôn giáo. Trong số 51% những người theo tôn giáo thì 49% theo đạo Phật, 49% theo Kitô giáo, 1% là tín đồ đạo Khổng, còn lại là tôn giáo khác. Các giá trị đạo Khổng ngày nay vẫn ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống thường ngày của người dân xứ Hàn, người con trai cả đảm nhận trách nhiệm trụ cột trong gia đình. Thêm vào đó tâm lý trọng nam cũng vẫn khá phổ biến ở Hàn Quốc.
Trong thành phần dân cư Hàn Quốc thì người Triều Tiên chiếm đại đa số. Dân tộc thiểu số duy nhất là bộ phận nhỏ người Hoa.
Nhờ kinh tế phát triển nên chể độ ăn uống và chăm sóc y tế đều được cải thiện. Trong những năm gần đây, ngân sách dành cho Bộ Y Tế và Phúc lợi đã tăng lên. Năm 2005, ngân sách Chính phủ dành cho Bộ Y Tế lên tới 8906 tỷ won ( tương đương 9,2 tỷ USD). Tỷ lệ chi cho y tế trong chi tiêu toàn hộ gia đình cũng tăng theo. Năm 2003 chi tiêu cho y tế bình quân đầu người là 840.133 won, tăng gần 10 lần so với chi năm 1985 chỉ là 85.000 won.
1.2.Chính Trị
Dù ngày nay là một nước cộng hoà nhưng suốt chiều dài lịch sử, Hàn Quốc đã trải qua nhiều năm tháng dưới chế độ độc tài hay phi dân chủ. Chỉ mãi đến cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, các nguyên tắc dân chủ mới bắt đầu được tôn trọng. Người đứng đầu nước là tổng thống do dân trực tiếp bầu ra năm năm một lần và chỉ được giữ một nhiệm kỳ duy nhất. Tổng thống là người hoạch định chính sách và người làm luật chủ yếu. Tổng thống hiện nay của Hàn Quốc là ông Roh Moo-hyun ( Lỗ Vũ Huyền).
1.3.Kinh tế
Nền kinh tế Hàn Quốc là một nền kinh tế thị trường trong đó nhà nước đóng một vai quan trọng.
Nếu cách đây 30 năm tổng sản phẩm quốc nội của Hàn Quốc chỉ đứng ngang với với các nước cùng kiệt ở Châu Phi và Châu Á thì hiện nay, tổng sản phẩm quốc nội của Hàn Quốc xếp thứ 10 trên thế giới. Năm 2005 GDP danh nghĩa của Hàn Quốc ước đạt khoảng 789 tỷ USD, GDP tính theo sức mua tương đương (PPP) ước đạt khoảng 1.097 tỷ USD.
những vấn đề về mặt xã hội. Các Chaebol làm như vậy để tạo ra áp lực đối với chính phủ trong việc yêu cầu chính phủ thực hiện các chính sách có lợi cho họ. Do chính phủ không kiểm soát được khu vực tư nhân, nên trong một số trường hợp chính phủ phải chấp nhận những yêu cầu của các Chaebol, làm cho công cuộc cải tổ không đạt được những mục tiêu đã đặt ra. Thực tiễn này của Hàn Quốc cho thấy, để nhà nước có thể nắm được quyền kiểm soát đối với các tập đoàn, nhằm phát huy các tác dụng tích cực của chúng đến sự phát triển nền kinh tế đất nước, nhà nước cần giữ tỷ lệ cố phần khống chế. Sau khi thực hiện cổ phần hoá các tổng công ty và hình thành nên các tập đoàn, để có thể tiếp tục giữ được tỷ lệ cổ phiếu khống chế nhằm duy trì quyền kiểm soát đối với tập đoàn, nhà nước cần tiếp tục đầu tư vốn vào các tập đoàn, nhà nước cần tiếp tục đầu tư vốn vào các tập đoàn trong quá trình mở rộng quy mô vốn của chúng. Nếu nhà nước không tiếp tục mua cổ phần thì tỷ trọng cố phiếu của nhà nước sẽ suy giảm, và như vậy, việc đánh mất quyền kiểm soát của mình.
I.Sự phù hợp của mô hình chaebol ở Việt Nam
Về cơ bản, các tổng công ty Việt Nam và Chaebol Hàn Quốc có điểm giống nhau là được nhà nước bảo hộ. Nhưng khác với các Chaebol đã phát huy được hiệu quả kinh tế của mình khi đóng vai trò là đầu tàu kéo nền kinh tế Hàn Quốc tăng trưởng thần kỳ thì các tổng công ty Việt Nam lại thể hiện tính kém hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt này, chủ yếu là do vai trò của Chính phủ. Quá trình công nghiệp hoá của Hàn Quốc là quá trình gắn liền với sự lớn mạnh của các Chaebol là các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn chịu sự chi phối chặt chẽ của chính phủ, chính phủ luôn giữ vai trò người chủ động trong điều tiết, kiểm soát tình hình kinh tế. Còn ở Việt Nam, các tổng công ty hầu hết là trực thuộc nhà nước và vừa mới được cải cách trong giai đoạn gần đây sau một thời gian dài nền kinh tế quan liêu, bao cấp. Sau cải cách năm 1986 đến nay nước ta mới thực sự có một sân chơi cho các doanh nghiệp. So với Hàn Quốc, quá trình công nghiệp hoá của nước ta bắt đầu muộn hơn rất nhiều, do đó tổng công ty của ta so với Chaebol Hàn Quốc cũng có một khoảng cách khá xa. Việc tiến tới thành lập và phát triển về số lượng các tập đoàn kinh tế Việt Nam với mong ước có thể gây được sức ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế và có tiếng vang trên trường quốc tế là điều khó đạt được trong thời gian ngắn như những mục tiêu kinh tế mà Đảng và Nhà nước đặt ra.
Từ sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới, doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường, với mức thuế đã được cắt giảm, hàng hoá xuất khẩu không bị phân biệt đối xử. Điều này tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu, kết quả khả quan là trong 7 tháng đầu năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 26,79 tỷ USD tăng 19.6%. Dự báo kim ngạch xuất khẩu trong quý III sẽ đạt khoảng 13 tỷ USD, tăng 25,48% so với cùng kỳ năm 2006 và bằng 27, 8% kế hoạch cả năm. Nhưng trong giai đoạn đầu doanh nghiệp Việt Nam có thể sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, xuất xứ sản phẩm thể hiện qua các vụ kiện phá giá nhắm vào các doanh nghiệp xuất khẩu như vụ cá tra, cá basa năm 2002, thuỷ sản, giày dép... Đến năm 2004, Việt Nam phải đối phó với 7 vụ kiện liên tiếp liên quan đến nhiều mặt hàng xuất khẩu. Như chúng ta đã biết, mô hình chaebol được hình thành chủ yếu trong giai đoạn thập niên 1960, nó được sự bảo hộ mạnh mẽ của chính phủ Hàn Quốc như ưu đãi cho vay với mức lãi suất thấp, bảo đảm cho các khoản nợ nước ngoài, bảo vệ hàng sản xuất trong nước,lên các kế hoạch phát triển kinh tế. Trong khi đó với tình hình Việt Nam hiện nay, khi đã trở thành thành viên của WTO thì Việt Nam không thể bảo hộ như chính Phủ Hàn Quốc đã thực hiên trước đây. Không những thế chúng ta còn phải cắt giảm thuế quan theo hiệp định khi gia nhập WTO. Ngoài ra còn phải cắt giảm thuế và chính sách trợ cấp để tham gia các khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA); khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc (ACFTA) và khu vực mậu dịch tự do ASEAN với các đối tác khác ( Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc-New Zealand). Từ lúc áp dụng thuế nhập khẩu theo CEPT/AFTA, Việt Nam luôn nhập siêu từ ASEAN. Ngoài tính cạnh tranh cao về chất lượng mẫu mã, hàng hoá thì các sản phẩm của Singapore, Malaysia, Thái Lan... đã tràn vào thị trường VN một phần nhờ thuế suất ưu đãi từ 0-5% khi chứng minh được nguyên vật liệu sản xuất có 40% nguồn gốc từ các nước ASEAN ( bình thường thuế suất này là 70%). Thêm vào đó theo cam kết gia nhập WTO đến năm 2009, thì các doanh nghiệp nước ngoài sẽ được thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam. Khi đó, thì các doanh nghiệp trong nước càng gặp nhiều khó khăn hơn trong việc chiếm lĩnh thị trường nội địa và có thể rất nhiều doanh nghiệp mà năng lực cạnh tranh yếu sẽ bị phá sản. Trong môi trường cạnh tranh mới, nhà nước không thể bảo hộ cho các doanh nghiệp về vốn và những điều kiện ưu đãi khác mà chỉ có thế hỗ trợ doanh nghiệp trong việc xây dựng hệ thống pháp luật minh bạch, cơ chế hỗ trợ cạnh tranh, tư vấn và kiểm tra việc thực hiện chính sách chống gian lận thương mại.
Hiệu quả của mô hình Chaebol là không thể phủ nhận, nhưng học tập theo mô hình đó và áp dụng vào tình hình thực tiễn hiện nay của nước ta thì không phù hợp. Vậy Việt Nam nên cải tổ hay đổi mới các tổng công ty như thế nào để vẫn có các tập đoàn lớn mạnh và vẫn phù hợp với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thị trường và với định hướng xã hội chủ nghĩa? Hiện nay Việt Nam chưa có tập đoàn kinh tế đúng nghĩa. Về 8 tập đoàn kinh tế nhà nước : Bưu chính - Viễn thông, Than - Khoáng sản, Dầu khí, Điện lực, Công nghiệp tàu thuỷ, Dệt may, Cao su, Tài chính - bảo hiểm, thì theo ông Nguyễn Trọng Dũng ( Phó Vụ trưởng Vụ Đổi mới doanh nghiệp, Văn phòng chính phủ) cho hay, đây chỉ là việc: “Thủ tướng phê duyệt các đề án thí điểm tập đoàn kinh tế trên cơ sở Tổng Cty Nhà nước quy mô lớn và các đề án này đang được triển khai thực hiện”. Theo ông Trần Tiến Cường (Trưởng Ban doanh nghiệp, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế T.Ư), việc phê duyệt đề án hay thành lập Cty mẹ - Tập đoàn mới chỉ là sự khởi đầu của một quá trình mà chưa phải là đã thành tập đoàn kinh tế. Bên cạnh đó, sau khi nêu ra “tên tuổi” của một số mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân tiêu biểu (Đồng Tâm, Kinh Đô, Hòa Phát, Hoàng Anh Gia Lai, Vincom, Trung Nguyên...), ông Lê Khắc Hiệp (Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Cty cổ phần Vincom) nhấn mạnh rằng: “Các tập đoàn kinh tế tư nhân hiện nay, nhìn chung, buộc phải mang cái tên không chính danh là Cty cổ phần tập đoàn, hay Cty trách nhiệm hữu hạn tập đoàn. Như vậy, trên thực tế về pháp lý mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân cho đến nay vẫn chưa được thừa nhận”. Thời gian gần đây xã hội xôn xao về việc " bình mới - rượu cũ" trong việc cổ phần hoá các công ty nhà nước. Nhìn bề ngoài thì nhà nước khuyến khích tư nhân tham gia vào sở hữư cổ phần của các doanh nghiệp này, tất nhiên nhà nước vẫn nắm đa số cổ phần (ít nhất là hơn 51%). Hiện tượng này gây ra việc mua bán, đầu cơ cổ phiếu của các giám đốc, cổ đông lớn trong doanh nghiệp mà không khuyến khích những đối tượng mới, người ngoài doanh nghiệp tham gia thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vì đa số cổ phiếu vẫn nằm trong tay những người cũ.
Tóm lại Chính phủ và các tập đoàn ở Việt Nam hiện nay còn phải quan sát, học hỏi và nỗ lực nhiều trên con đường tìm cho mình một cái tên theo đúng nghĩa và làm ăn có hiệu quả xứng với cái tên Tập Đoàn Kinh Tế.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: