koolboy_style
New Member
Download miễn phí Đề tài Nghiên cứu sự biến đổi chức năng tâm thu thất trái bằng siêu âm tim ở bệnh nhân hẹp hai lá khít trước và sau nong van hai lá bằng bóng
Độ tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nghiên cứu là 37,612,4 cao nhất là 66 tuổi, thấp nhất là 13 tuổi, chủ yếu ở trong lứa tuổi lao động (có 60 bệnh nhân) chiếm tỷ lệ 83,3%, điều đó phần nào nói lên ảnh hưởng của bệnh HHL đến đời sống kinh tế, sức khoẻ của người dân. Chỉ số khối lượng cơ thể (BMI) trung bình của bệnh nhân là 18,720,24, ở mức độ thấp của giới hạn bình thường, điều đó phần nào phản ánh sự hạn chế về phát triển thể lực ở những bệnh nhân bị HHL.
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2014-03-13-de_tai_nghien_cuu_su_bien_doi_chuc_nang_tam_thu_th.SYmXbl1o8Q.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-63852/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
tui đánh giá một số thông số về thể tích, chức năng thất trái: Đường kính thất trái tâm thu (Ds), đường kính thất trái tâm trương (Dd), thể tích thất trái cuối tâm thu (Vs), thể tích thất trái cuối tâm trương (Vd), thể tích nhát bóp (SV), phân số tống máu (EF), chỉ số thể tích cuối tâm trương thất trái (EDVI), chỉ số thể tích nhát bóp (SVI).1.4.1. Phương pháp đo đường kính và thể tích thất trái[11]:
được thăm dò chủ yếu trên các thiết đồ cạnh ức trái trục dài hay ngắn, 4 buồng từ mỏm và dưới mũi ức. Thiết đồ trục dài và ngắn cạnh ức là vị trí chuẩn nhất để đo đạc các kích thước của thất trái và trên thế giới đa số các trung tâm tiến hành đo đạc trên siêu âm TM theo phương pháp của hội siêu âm Tim mạch Hoa Kỳ.
- Các kích thước tâm trương được đo ở vị trí tương ứng với điểm khởi đầu của sóng R trên điện tâm đồ.
- Các kích thước tâm thu được đo ở vị trí vách liên thất đạt độ dầy tối đa.
Bình thường:
Dd = 46,5 +/- 3,7 mm
Ds = 30,3 +/- 3,2 mm
Từ các kích thước đã đo được chúng ta có thể tính được các chỉ số thể tích thất trái.
- Thể tích thất trái thường được tính theo công thức của Teicholz:
Trong đó: d là đường kính của buồng thất (Dd, Ds). Từ đó tính:
Thể tích cuối tâm trương thất trái (Vd): 101,1 +/- 17,2 ml.
Thể tích cuối tâm thu thất trái (Vs): 37,1 +/- 8,8 ml.
- Chỉ số thể tích thất trái cuối tâm trương (EDVI) là chỉ số đánh giá thể cuối tâm trương tích thất trái theo diện tích bề mặt cơ thể. Trị số bình thường: 62,81 +/- 10,54 ml/m2. Buồng thất trái được coi là giãn khi EDVI vượt giới hạn 90ml/m2.
- Tính thể tích thất trái trên 2D: Có nhiều cách đo và tính thể tích thất trái trên 2D dựa trên các model hình học khác nhau. Nhưng đa số các tác giả thống nhất phương pháp Simpson là thích hợp nhất cho mọi hình dạng thất trái, nhất là những bệnh nhân có rối loạn vận động thành, buồng thất trái bị biến dạng do có những vùng bị hoại tử sau nhồi máu cơ tim. Phương pháp này dựa trên nguyên lý: thể tích của hình lớn (thất trái) bằng tổng thể tích của các hình nhỏ, được chia ra từ hình lớn theo trục dọc của nó. Buồng thất trái (TT) được chia theo trục dọc thành nhiều hình trụ (vùng thân thất trái), còn vùng mỏm thất trái được coi như hình elip. Hình ảnh TT được lấy từ thiết đồ 4 hay 2 buồng tim từ mỏm, đo các chỉ số ở 2 thì: cuối tâm trương và cuối tâm thu (lúc buồng tim giãn nhất - tâm trương và nhỏ nhất - tâm thu). Viền theo nội mạc của buồng thất để tính diện tích thiết diện TT. Đo chiều dài của buồng thất: từ điểm ngang của vòng van hai lá đến mỏm tim. Chương trình sẵn có trong máy sẽ tính thể tích cuối tâm trương (Vd) và cuối tâm thu (Vs) của TT.
Tuy nhiên trong HHL, không có rối loan vận động vùng. Do vậy, trong đề tài này chúng tui sử dụng phương pháp Teichol để tính thể tích thất trái.
1.4.2. Chức năng tâm thu thất trái (CNTTTT) [11]:
CNTTTT được tính từ các chỉ số hình thái và bao gồm các chỉ số chính sau:
- Chỉ số co ngắn sợi cơ (%D): được tính từ các đường kính tâm trương và tâm thu TT. Chỉ số này phản ánh khá chính xác CNTTTT và được hầu hết các trung tâm tim mạch trên thế giới sử dụng như một trong những chỉ số tâm thu chính.
%D = (Dd -Ds)/Dd ´ 100(%).
Trong đó: Dd: đường kính TT cuối tâm trương.
Ds: đường kính TT cuối tâm thu.
Trị số bình thường: 34,7 +/- 6,3%
Các giá trị bệnh lý:
Chức năng tâm thu giảm: %D < 25%
Chức năng tâm thu tăng: %D > 45%, có thể gặp trong các bệnh lý cấp tính: hở van tim cấp ( van HL, ĐMC)...
- Phân suất tống máu (EF-ejection fraction): được coi là chỉ số tâm thu tin cậy nhất, được ứng dụng rộng rãi nhất trong tim mạch, được tính dựa trên các chỉ số thể tích TT của siêu âm TM và hay 2D (thường được sử dụng khi không có rối loạn vân động vùng của thành tim - nhồi máu cơ tim - lúc đó các chỉ số TM không còn chính xác nữa)
EF = (Vd - Vs)/Vd ´100(%)
Trong đó:
Vd: Thể tích thất trái cuối tâm trương.
Vs: Thể tích thất trái cuối tâm thu.
Trị số bình thường: 62,3 +/- 7,3 %.
- Cung lượng tim: trên siêu âm Doppler cung lượng tim được tính theo công thức:
Q = V ´ TS
Trong đó: Q : cung lượng tim (l/ph );
V : thể tích tống máu (l);
TS : tần số tim (chu kỳ/phút).
Cơ sở của việc đánh giá thể tích trên siêu âm Doppler là đo thể tích máu đi qua một lỗ van trong thời kỳ tâm thu, coi dòng máu là dòng chảy tầng và với một dạng tốc độ, ta có công thức: V = VTI ´ S
Trong đó: S : Diện tích lỗ van, được tính theo công thức S = PD2/4
D : Đường kính lỗ van động mạch chủ đo trên siêu âm 2D (ngay dưới van động mạch chủ).
VTI : Tích phân vận tốc theo thời gian tương ứng với khoảng cách trung bình mà một hồng cầu đi được trong một thì tâm thu.
VTI = fv(t)dt/cosq
q : là góc giữa trục của dòng máu qua van và trục của chùm tia siêu âm. Nếu q <200 thì cosq = 1.
Tóm lại cung lượng tim có thể được tính theo phương trình:
Q = [ fv(t)dt] ´ [ PD2/4 ] ´ [ TS ].
fv(t)dt hay VTI đo được bằng cách số hoá phổ vận tốc của dòng tâm thu qua lỗ van tương ứng nhận được trên Doppler xung.
Cách đo:
+ Đặt cửa sổ Doppler xung ngay dưới van động mạch chủ.
+ Đo VTI: viền đường cong phổ vận tốc của dòng tâm thu qua lỗ van động mạch chủ.
+ Đo S = PD2/4 ta có V = VTI ´ S và Q = V ´ TS
Nếu bệnh nhân HHL kèm rung nhĩ thì phổ Doppler xung qua van động mạch chủ sẽ thay đổi theo từng nhát bóp của tim dẫn đến đường viền đo diện tích phổ cũng thay đổi. Do vậy để có con số cung lượng tim một cách chính xác hơn thì ta đo VTI ở 5 nhát bóp liên tiếp và lấy con số trung bình.
Trị số bình thường của CO là 4-5l/ph
-Chỉ số tim (Cardiac Index -CI): Là chỉ số đánh giá cung lượng tim theo diện tích da bề mặt cơ thể.
CI= CO/Sda
Trị số bình thường là 3-3,5l/ph/m2
- Thể tích nhát bóp (Stroke Volume -SV): là thể tích máu tim bơm đi được trong một lần co bóp.
SV=Vd-Vs
-Chỉ số thể tích nhát bóp (Stroke Volume Index- SVI): là chỉ số đánh giá thể tích nhát bóp theo diện tích da bề mặt cơ thể.
1.5. Một số nghiên cứu về sự biến đổi thể tích và chức năng thất trái sau NVHL:
Jin C trong một nghiên cứu đánh giá chức năng tâm thu thất trái trên 57 bệnh nhân HHL khít trước và sau NVHL bằng bóng
- Fawzy ME và cộng sự nghiên cứu sự cải thiện thể tích và chức năng thất trái ở bệnh nhân HHL ngay sau NVHL và theo dõi 12 tháng sau NVHL thấy: ở bệnh nhân HHL khít chỉ số thể tích thất trái cuối tâm trương (EDVI) giảm (Ê55ml/m2), phân số tống máu (EF) giảm (<50%). Ngay sau NVHL, EDVI tăng từ 60+/-17 ml/m2 lên 66+/-17 ml/m2 (p<0,05), chỉ số thể tích nhát bóp (SVI) tăng từ 34+/-10 ml/m2 lên 41+/-12 ml/m2, áp lực cuối tâm trương thất trái tăng từ 12+/-5 mmHg lên 16+/-4mmHg, EF tăng từ 57+/-7% lên 62+/-6%, sức cản hệ thống giảm từ 1887+/-525 dyne/sec/cm5 xuống 1280 dyne/sec/cm5[25]
- Yasuda S theo dõi 32 trước và sau NVHL thấy EDVI tăng từ 62+/-112 lên 74+/-14 ml/m2, SVI tăng từ 39+/9 lên 47+/-11ml/m2, áp lực cuối tâm trương thất trái tăng từ 5,5+/-2,8 mmHg lên 11+/-2,9 mmHg. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê[46].
- Razzolini nghiên cứu trên 51 bệnh nhân HHL khít đơn thuần được NVHL, kết quả là: ngay sau NVHL, thể tích và áp lực cuối tâm trương thất trái tăng (p<0,001); EF tăng (p&l...