thantinhyeueros2225
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Lợi nhuận buộc người sản xuất phải từ bỏ những lĩnh vực mà người tiêu dùng ít quan tâm và không có nhu cầu, đồng thời hướng vào những lĩnh vực được sự quan tâm của người tiêu dùng. Có như vậy, doanh nghiệp mới có thể bán được những hàng hoá do mình sản xuất ra. Nhu cầu của khách hàng rất đa dạng và hay thay đổi theo thời gian, vì vậy doanh nghiệp phải biết sản xuất những mặt hàng phù hợp với sở thích, thị hiếu của người tiêu dùng và đưa ra đúng lúc thị trường đang có nhu cầu. Và đương nhiên với những mức giá cả và chất lượng thích hợp thì các sản phẩm của doanh nghiệp sẽ được thị trường chấp nhận.
Lợi nhuận còn là nhân tố kích thích đầu tư, chuyển giao công nghệ. Căn cứ vào các mức tỷ suất lợi nhuận khác nhau của các dự án đầu tư vào những lĩnh vựccó tỷ suất lợi nhuận cao để đem lại cho mình nhiều lợi nhuận nhất. Về phía các nhà sản xuất, họ cũng sẵn sàng nhập những công nghệ có thể đem lại cho họ năng suất lao động cao hơn.
Trên đây là một số những tác động tích cực của lợi nhuận đối với nền kinh tế thị trường. Xét về khía cạnh xã hội, với những tác động tích cực này, lợi nhuận góp phần vào việc nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, phát triển kinh tế xã hội, tạo điều kiện để làm ra cho xã hội nhiều của cải hơn và người tiêu dùng có cơ hội để thoả mãn nhu cầu của mình.
Nhưng bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường cũng có mặt trái của nó. Lợi nhuận, bên cạnh những mặt tích cực cũng có những tác động tiêu cực của nó, làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống xã hội.
Để có lợi nhuận, người chủ phải bóc lột giá trị thặgn dư của công nhân làm thuê. Muốn tối đa lợi nhuận, thì bên cạnh việc cải tiến công nghệ, người chủ phải tìm mọi cách để chiếm đoạt càng nhiều giá trị thặgn dư mà người công nhân tạo ra. Từ đó sẽ làm cho tình trạng phân hoá giàu cùng kiệt ngày càng sâu sắc và sẽ dẫn đến những mâu thuẫn giữa người lao động và chủ doanh nghiệp.
Vì chạy theo lợi nhuận, các hãng sử dụng lãng phí các nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường sống của con người và các sinh vật khác. Thực trạng thế giới hiện nay cho thấy nhiều quốc gia đang sử dụng cạn kiệt nguồn tài nguyên của mình, môi trường sống nhiều nơi bị ô nhiễm, nhiệt độ trái đất đang tăng dần, dẫn đến những căn bệnh hiểm cùng kiệt đe doạ sự sống của con người. Bên cạnh đó, cùng với sự tiến bộ của kỹ thuật, con người cũng đã chế tạo ra nhiều loại vũ khí huỷ diệt, rồi tình trạng chạy đua vũ trang, quân sự hoá nền kin tế, thương mại hoá quân sự đã và đang là mối hiểm hoạ đe doạ cuộc sống của con người.
Thực tế nền kinh tế Việt Nam sau hơn 10 năm đổi mới, đã tạo ra sự tăng trưởng đáng kể cho nền kinh tế, ổn định chính trị – xã hội. Nhưng chúng ta không thể không nhìn nhận đến những mặt trái của cơ chế thị trường đang tác động tiêu cực đến kinh tế – xã hội Việt Nam. Chính sách mở cửa kinh tế, cổ phần hoá những doanh nghiệp nhà nước mà làm ăn kém hiệu quả của nhà nước ta là đúng đắn. Nó đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh của minhf. Nhưng nhiều doanh nghiệp đã chạy theo lợi nhuận mà tiến hành các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên đất nước, gây ô nhiễm môi trường quá nhiều lần mức chi tiêu cho phép. Những hậu quả gây ra đó, không ai khác mà chính doanh nghiệp và toàn bộ xã hội sẽ phải gánh chịu cả trong hiện tại và tương lai. Điều này tất yếu phải cần đến yêu cầu là nhà nước cần có những biện pháp quản lý có hiệu quả hơn để giảm thiểu và tránh những hậu quả bất lợi cho xã hội.
Lời mở đầu
Lợi nhuận là mục tiêu kinh tế cao nhất, là điều kiện tồn tạivà phát triển của doanh nghiệp. Với tư cách là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh cả về mặt lượng và chất toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình sản xuất, kinh doanh, lợi nhuận là vấn đề được đặt lên hàng đầu đối với các doanh nghiệp trước khi họ đưa ra các quyết định sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp là người sản xuất, cung cấp các hàng hoá và dịch vụ cho thị trường, họ phải bỏ vốn ra để tiến hành sản xuất – kinh doanh. Họ đều mong muốn chi phí cho các đầu vào thật thấp và bán được các hàng hoá - dịch vụ của mình với giá cao để sau khi trừ đi chi phí, số tiền lãi thu được không chỉ đủ để tái sản xuất giản đơn, mà còn có tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích luỹ để mở rộng và phát triển sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường. Lợi nhuận là căn cứ, là tín hiệu báo cho các doanh nghiệp biết mình phải sản xuất loại hàng hoá - dịch vụ nào, với số lượng bao nhiêu, sản xuất voà thời điểm nào, bán ra ở đâu, với giá cả là bao nhiêu....
Với tầm quan trọng đặc biệt như vậy, phạm trù lợi nhuận đã được các nhà kinh tế từ trước đến nay quan tâm nghiên cứu để làm rõ các vấn đề về nguồn gốc, bản chất và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế. Họ đã đứng trên các lập trường, quan điểm khác nhau để nghiên cứu về lợi nhuận. Các kết luận của họ đưa ra không hoàn toàn giống nhau, song nó cũng đã phần nào thể hiện được các vấn đề cơ bản của lợi nhuận. Trong đó phải kể đến Karl Mark, người đầu tiên đã nghiên cứu một cách khoa học và sâu sắc phạm trù lợi nhuận. Cho đến ngày nay, phạm trù lợi nhuận vẫn được tiếp tục được các nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu làm cho hệ thống lý luận về lợi nhuận ngày càng hoàn thiện hơn. Với mỗi chúng ta, đặc biệt là với các nhà nghiên cứu kinh tế, các nhà sản xuất kinh doanh việc nghiên cứu về phạm trù lợi nhuận là cần thiết giúp cho các doanh nghiệp có thể đưa ra các quyết định đúng đắn, tạo điều kiện phát huy các tác động tích cực và hạn chế các mặt trái của lợi nhuận.
Hiện nay, Việt Nam đang sống trong công cuộc xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, một trong những vấn đề quan trọng cần làm đó là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước để phát triển nền kinh tế đất nước. Vai trò của nhà nước là rất quan trọng, nhà nước sẽ là người điều tiết các hoạt động kinh tế phát huy sức mạnh tích cực của cơ ché thị trường đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của nó.
Trogn quá trình này, phạm trù lợi nhuận cần được nghiên cứu, vận dụng sao cho hợp lý để cho việc phát triển kinh tế phải đi đôi với việc ổn định và thực hiện công bằng xã hội.
Với những kiến thức đã được học, em mạnh dạn nhận viết đề tài nghiên cứu về nguồn gốc, bản chất và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Bài viết của em trên cơ sở kế thừa thành quả của các nhà kinh tế học và được sự trức tiếp hướng dẫn của thầy giáo, do khả năng và trình độ có hạn nên bài viết sẽ không tránh khỏi những hạn chế, em mong nhận được những ý kiến nhận xét của các thầy để có thể hoàn thiện hơn nhận thức của mình.
Em xin chân thành Thank thày giáo đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Phần nội dung
I. Nguồn gốc và bản chất lợi nhuận:
1. Quan điểm lợi nhuận của các trường phái trước và sau Mark:
Phạm trù lợi nhuận đã xuất hiện từ lâu và được hầu hết các nhà kinh tế học quan tâm nghiên cứu. Trong số họ, có nhiều người ủng hộ sự có mặt lợi nhuận như là một tất yếu, có lợi nhuận là tốt đẹp; nhưng cũng có nhiều người không thừa nhận lợi nhuận, coi nó là xấu xa, là nguyên nhân của những tệ nạn xã hội. Trong lịch sử, chỉ có Karl Mark là người thành công nhất trong nghiên cứu về phạm trù lợi nhuận. Trước Mark, các nhà kinh tế học mới chỉ dừng lại ở chỗ lý thuyết về tiền công chứ chưa đưa ra được những luận chứng về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.
Những nhà trọng thương, trên quan điểm đánh giá cao vai trò của tiền tệ và thương nghiệp cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông tạo ra. Nó là kết quả của việc bán nhiều mua ít, mua rẻ bán đắt mà có.
Các nhà trọng nông ở Pháp, tiêu biểu là A.R.J. Turgot, trên cơ sở lý thuyết sản phẩm thuần tuý đã đưa ra lý thuyết tiền lương và lợi nhuận. Theo Turgot, tiền lương của công nhân là thu nhập theo lao động, còn sản phẩm thuần tuý là thu nhập của nhà tư bản và được gọi là lợi nhuận. Lợi nhuận là thu nhập không lao động của nhà tư bản do công nhân lao động tạo ra.
A.Smith (1723-1790), nhà kinh tế học người Anh nổi tiếng với lý thuyết “ Bàn tay vô hình”, dựa trên lý thuyết giá trị lao động đã cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động: Lợi nhuận và địa tô có chung một nguồn gốc là lao động không được trả công của người lao động. Ông cũng đã chỉ ra được một hình thức của lợi nhuận, đó là lợi tức. Theo ông, lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền đi vay trả cho chủ nô để được quyền sở hữu tư bản. A.Smith cũng đã nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và xu hướng tỷ xuất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên.
Sau A.Smith, nhà kinh tế học D.Ricardo (1772-1823) cũng đã đưa ra được những tư tưởng cơ bản về lợi nhuận. Theo ông, lợi nhuận là số tiền còn lại ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân bằng sự vận động biến đổi thu nhập giữa ba cấp: địa chủ – công nhân và tư bản. Teo ông, chỉ địa chủ là người có lợi, người công nhân không được lợi nhưng cũng không bị hại vì tỷ suất lợi nhuận giảm xuống.
Những lý thuết về lợi nhuận nêu trên cho thấy hầu hết các nhà kinh tế học ở giai đoạn này đều chưa thành công trong nghiên cứu về lợi nhuận và hầu hết họ đều thừa nhận sự tồn tại của lợi nhuận. Nhưng cùng với sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra vào những năm cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 đã dẫn đến những thay đổi đáng kể về mặt kinh tế – xã hội, nhiều mâu thuãn trong xã hội tư bản nảy sinh và ngày càng gay gắt. Từ đó đã xuất hiện trường phái kinh tế chính trị tiểu tư sản, rồi chủ nghĩa xã hội không tưởng. Tư tưởng chính của hai trường phái này là phê phán lợi nhuận, coi lợi nhuận là một cái gì đó không đúng đắn, là bất công, là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế và các tệ nạn của xã hội tư bản (Robert Owen), và “quyền sở hữu, đó là của ăn cắp” (Proudhon).
Sang thế kỷ 20, phạm trù lợi nhuận được các nhà kinh tế học tiếp tục nghiên cứu. Họ đã đưa ra những cách giải thích khác nhau về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Song tựu chung lại, tất cả họ đều nhằm biện hộ cho lợi nhuận, đều nhằm khẳng định sự tồn tại đương nhiên hợp lý của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Họ cho rằng “lợi nhuận là tiền công trả cho năng lực điều hành và tổ chức sản xuất của nhà tư bản, cho việc họ chịu mạo hiểm khi bỏ vốn ra đầu tư” (Marshall), hay “lợi nhuận đó là kết quả của mọi sự cách tân” (J.Schompeter).
Như vậy, sau gần 200 năm ngày ra đời của khoa học kinh tế, các nhà kinh tế học vẫn chưa thống nhất được với nhau về cách chứng minh nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận và sự chiếm hữu lợi nhuận. Tuy nhiên, những đóng góp của họ cho hệ thống lý luận kinh tế cũng thật quý báu, đặc biệt là sự đóng góp của Karl Mark.
2. Lý luận lợi nhuận của Mark:
Karl Mark (1818-1883) là một nhà tư tưởng vĩ đại của giai cấp vô sản thế giới. Dựa trên lý
Kết luận
Trong cuộc sống, mỗi một vấn đề khi được đặt ra nghiên cứu và làm sáng tỏ không chỉ giúp ta thấy được nguồn gốc, bản chất của vấn đề đó, mà nó còn cho ta có được cách nhìn nhận mới về vấn đề ta nghiên cứu, đồng thời giúp ta có được sự vận dụng hợp lý vấn đề đó vào cuộc sống. Đối với phạm trù lợi nhuận cũng vậy. Qua nghiên cứu về lợi nhuận ta thấy được nguồn gốc của nó là giá trị bộ phận thặng dư do lao động không được trả công của người công nhân làm ra, thấy được bản chất của nó là sự bóc lột sức lao động của những ngời làm thuê, và đồng thời tá cũng thấy được vai trò rất tích cực của nó là động lực vận động cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Việt Nam ta hiện nay đang trong công cuộc xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Vì vậy, ta không thể không nhận thức rõ được những tác động tích cực cũng như những tác động tiêu cực cuả cơ chế thị trưòng, những tác động tiêu cực của vấn đề lợi nhuận. Trên cơ sở trình độ và hiểu biết của mình, chúng ta phải hạn chế tối đa những tác động tiêu cực, phát huy những mặt tích cực để cho nền kinh tế phát triển lành mạnh, giải quyết tốt những vấn đề xã hội , phấn đấu thực hiện những mục tiêu cao cả đã đề ra. Chính vì lẽ đó, nền kinh tế thị trường ở nước ta được phát triển trên cơ sở có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Lợi nhuận buộc người sản xuất phải từ bỏ những lĩnh vực mà người tiêu dùng ít quan tâm và không có nhu cầu, đồng thời hướng vào những lĩnh vực được sự quan tâm của người tiêu dùng. Có như vậy, doanh nghiệp mới có thể bán được những hàng hoá do mình sản xuất ra. Nhu cầu của khách hàng rất đa dạng và hay thay đổi theo thời gian, vì vậy doanh nghiệp phải biết sản xuất những mặt hàng phù hợp với sở thích, thị hiếu của người tiêu dùng và đưa ra đúng lúc thị trường đang có nhu cầu. Và đương nhiên với những mức giá cả và chất lượng thích hợp thì các sản phẩm của doanh nghiệp sẽ được thị trường chấp nhận.
Lợi nhuận còn là nhân tố kích thích đầu tư, chuyển giao công nghệ. Căn cứ vào các mức tỷ suất lợi nhuận khác nhau của các dự án đầu tư vào những lĩnh vựccó tỷ suất lợi nhuận cao để đem lại cho mình nhiều lợi nhuận nhất. Về phía các nhà sản xuất, họ cũng sẵn sàng nhập những công nghệ có thể đem lại cho họ năng suất lao động cao hơn.
Trên đây là một số những tác động tích cực của lợi nhuận đối với nền kinh tế thị trường. Xét về khía cạnh xã hội, với những tác động tích cực này, lợi nhuận góp phần vào việc nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, phát triển kinh tế xã hội, tạo điều kiện để làm ra cho xã hội nhiều của cải hơn và người tiêu dùng có cơ hội để thoả mãn nhu cầu của mình.
Nhưng bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường cũng có mặt trái của nó. Lợi nhuận, bên cạnh những mặt tích cực cũng có những tác động tiêu cực của nó, làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống xã hội.
Để có lợi nhuận, người chủ phải bóc lột giá trị thặgn dư của công nhân làm thuê. Muốn tối đa lợi nhuận, thì bên cạnh việc cải tiến công nghệ, người chủ phải tìm mọi cách để chiếm đoạt càng nhiều giá trị thặgn dư mà người công nhân tạo ra. Từ đó sẽ làm cho tình trạng phân hoá giàu cùng kiệt ngày càng sâu sắc và sẽ dẫn đến những mâu thuẫn giữa người lao động và chủ doanh nghiệp.
Vì chạy theo lợi nhuận, các hãng sử dụng lãng phí các nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường sống của con người và các sinh vật khác. Thực trạng thế giới hiện nay cho thấy nhiều quốc gia đang sử dụng cạn kiệt nguồn tài nguyên của mình, môi trường sống nhiều nơi bị ô nhiễm, nhiệt độ trái đất đang tăng dần, dẫn đến những căn bệnh hiểm cùng kiệt đe doạ sự sống của con người. Bên cạnh đó, cùng với sự tiến bộ của kỹ thuật, con người cũng đã chế tạo ra nhiều loại vũ khí huỷ diệt, rồi tình trạng chạy đua vũ trang, quân sự hoá nền kin tế, thương mại hoá quân sự đã và đang là mối hiểm hoạ đe doạ cuộc sống của con người.
Thực tế nền kinh tế Việt Nam sau hơn 10 năm đổi mới, đã tạo ra sự tăng trưởng đáng kể cho nền kinh tế, ổn định chính trị – xã hội. Nhưng chúng ta không thể không nhìn nhận đến những mặt trái của cơ chế thị trường đang tác động tiêu cực đến kinh tế – xã hội Việt Nam. Chính sách mở cửa kinh tế, cổ phần hoá những doanh nghiệp nhà nước mà làm ăn kém hiệu quả của nhà nước ta là đúng đắn. Nó đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh của minhf. Nhưng nhiều doanh nghiệp đã chạy theo lợi nhuận mà tiến hành các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên đất nước, gây ô nhiễm môi trường quá nhiều lần mức chi tiêu cho phép. Những hậu quả gây ra đó, không ai khác mà chính doanh nghiệp và toàn bộ xã hội sẽ phải gánh chịu cả trong hiện tại và tương lai. Điều này tất yếu phải cần đến yêu cầu là nhà nước cần có những biện pháp quản lý có hiệu quả hơn để giảm thiểu và tránh những hậu quả bất lợi cho xã hội.
Lời mở đầu
Lợi nhuận là mục tiêu kinh tế cao nhất, là điều kiện tồn tạivà phát triển của doanh nghiệp. Với tư cách là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh cả về mặt lượng và chất toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình sản xuất, kinh doanh, lợi nhuận là vấn đề được đặt lên hàng đầu đối với các doanh nghiệp trước khi họ đưa ra các quyết định sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp là người sản xuất, cung cấp các hàng hoá và dịch vụ cho thị trường, họ phải bỏ vốn ra để tiến hành sản xuất – kinh doanh. Họ đều mong muốn chi phí cho các đầu vào thật thấp và bán được các hàng hoá - dịch vụ của mình với giá cao để sau khi trừ đi chi phí, số tiền lãi thu được không chỉ đủ để tái sản xuất giản đơn, mà còn có tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích luỹ để mở rộng và phát triển sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường. Lợi nhuận là căn cứ, là tín hiệu báo cho các doanh nghiệp biết mình phải sản xuất loại hàng hoá - dịch vụ nào, với số lượng bao nhiêu, sản xuất voà thời điểm nào, bán ra ở đâu, với giá cả là bao nhiêu....
Với tầm quan trọng đặc biệt như vậy, phạm trù lợi nhuận đã được các nhà kinh tế từ trước đến nay quan tâm nghiên cứu để làm rõ các vấn đề về nguồn gốc, bản chất và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế. Họ đã đứng trên các lập trường, quan điểm khác nhau để nghiên cứu về lợi nhuận. Các kết luận của họ đưa ra không hoàn toàn giống nhau, song nó cũng đã phần nào thể hiện được các vấn đề cơ bản của lợi nhuận. Trong đó phải kể đến Karl Mark, người đầu tiên đã nghiên cứu một cách khoa học và sâu sắc phạm trù lợi nhuận. Cho đến ngày nay, phạm trù lợi nhuận vẫn được tiếp tục được các nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu làm cho hệ thống lý luận về lợi nhuận ngày càng hoàn thiện hơn. Với mỗi chúng ta, đặc biệt là với các nhà nghiên cứu kinh tế, các nhà sản xuất kinh doanh việc nghiên cứu về phạm trù lợi nhuận là cần thiết giúp cho các doanh nghiệp có thể đưa ra các quyết định đúng đắn, tạo điều kiện phát huy các tác động tích cực và hạn chế các mặt trái của lợi nhuận.
Hiện nay, Việt Nam đang sống trong công cuộc xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, một trong những vấn đề quan trọng cần làm đó là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước để phát triển nền kinh tế đất nước. Vai trò của nhà nước là rất quan trọng, nhà nước sẽ là người điều tiết các hoạt động kinh tế phát huy sức mạnh tích cực của cơ ché thị trường đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của nó.
Trogn quá trình này, phạm trù lợi nhuận cần được nghiên cứu, vận dụng sao cho hợp lý để cho việc phát triển kinh tế phải đi đôi với việc ổn định và thực hiện công bằng xã hội.
Với những kiến thức đã được học, em mạnh dạn nhận viết đề tài nghiên cứu về nguồn gốc, bản chất và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Bài viết của em trên cơ sở kế thừa thành quả của các nhà kinh tế học và được sự trức tiếp hướng dẫn của thầy giáo, do khả năng và trình độ có hạn nên bài viết sẽ không tránh khỏi những hạn chế, em mong nhận được những ý kiến nhận xét của các thầy để có thể hoàn thiện hơn nhận thức của mình.
Em xin chân thành Thank thày giáo đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Phần nội dung
I. Nguồn gốc và bản chất lợi nhuận:
1. Quan điểm lợi nhuận của các trường phái trước và sau Mark:
Phạm trù lợi nhuận đã xuất hiện từ lâu và được hầu hết các nhà kinh tế học quan tâm nghiên cứu. Trong số họ, có nhiều người ủng hộ sự có mặt lợi nhuận như là một tất yếu, có lợi nhuận là tốt đẹp; nhưng cũng có nhiều người không thừa nhận lợi nhuận, coi nó là xấu xa, là nguyên nhân của những tệ nạn xã hội. Trong lịch sử, chỉ có Karl Mark là người thành công nhất trong nghiên cứu về phạm trù lợi nhuận. Trước Mark, các nhà kinh tế học mới chỉ dừng lại ở chỗ lý thuyết về tiền công chứ chưa đưa ra được những luận chứng về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.
Những nhà trọng thương, trên quan điểm đánh giá cao vai trò của tiền tệ và thương nghiệp cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông tạo ra. Nó là kết quả của việc bán nhiều mua ít, mua rẻ bán đắt mà có.
Các nhà trọng nông ở Pháp, tiêu biểu là A.R.J. Turgot, trên cơ sở lý thuyết sản phẩm thuần tuý đã đưa ra lý thuyết tiền lương và lợi nhuận. Theo Turgot, tiền lương của công nhân là thu nhập theo lao động, còn sản phẩm thuần tuý là thu nhập của nhà tư bản và được gọi là lợi nhuận. Lợi nhuận là thu nhập không lao động của nhà tư bản do công nhân lao động tạo ra.
A.Smith (1723-1790), nhà kinh tế học người Anh nổi tiếng với lý thuyết “ Bàn tay vô hình”, dựa trên lý thuyết giá trị lao động đã cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động: Lợi nhuận và địa tô có chung một nguồn gốc là lao động không được trả công của người lao động. Ông cũng đã chỉ ra được một hình thức của lợi nhuận, đó là lợi tức. Theo ông, lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền đi vay trả cho chủ nô để được quyền sở hữu tư bản. A.Smith cũng đã nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và xu hướng tỷ xuất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên.
Sau A.Smith, nhà kinh tế học D.Ricardo (1772-1823) cũng đã đưa ra được những tư tưởng cơ bản về lợi nhuận. Theo ông, lợi nhuận là số tiền còn lại ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân bằng sự vận động biến đổi thu nhập giữa ba cấp: địa chủ – công nhân và tư bản. Teo ông, chỉ địa chủ là người có lợi, người công nhân không được lợi nhưng cũng không bị hại vì tỷ suất lợi nhuận giảm xuống.
Những lý thuết về lợi nhuận nêu trên cho thấy hầu hết các nhà kinh tế học ở giai đoạn này đều chưa thành công trong nghiên cứu về lợi nhuận và hầu hết họ đều thừa nhận sự tồn tại của lợi nhuận. Nhưng cùng với sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra vào những năm cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 đã dẫn đến những thay đổi đáng kể về mặt kinh tế – xã hội, nhiều mâu thuãn trong xã hội tư bản nảy sinh và ngày càng gay gắt. Từ đó đã xuất hiện trường phái kinh tế chính trị tiểu tư sản, rồi chủ nghĩa xã hội không tưởng. Tư tưởng chính của hai trường phái này là phê phán lợi nhuận, coi lợi nhuận là một cái gì đó không đúng đắn, là bất công, là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế và các tệ nạn của xã hội tư bản (Robert Owen), và “quyền sở hữu, đó là của ăn cắp” (Proudhon).
Sang thế kỷ 20, phạm trù lợi nhuận được các nhà kinh tế học tiếp tục nghiên cứu. Họ đã đưa ra những cách giải thích khác nhau về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Song tựu chung lại, tất cả họ đều nhằm biện hộ cho lợi nhuận, đều nhằm khẳng định sự tồn tại đương nhiên hợp lý của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Họ cho rằng “lợi nhuận là tiền công trả cho năng lực điều hành và tổ chức sản xuất của nhà tư bản, cho việc họ chịu mạo hiểm khi bỏ vốn ra đầu tư” (Marshall), hay “lợi nhuận đó là kết quả của mọi sự cách tân” (J.Schompeter).
Như vậy, sau gần 200 năm ngày ra đời của khoa học kinh tế, các nhà kinh tế học vẫn chưa thống nhất được với nhau về cách chứng minh nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận và sự chiếm hữu lợi nhuận. Tuy nhiên, những đóng góp của họ cho hệ thống lý luận kinh tế cũng thật quý báu, đặc biệt là sự đóng góp của Karl Mark.
2. Lý luận lợi nhuận của Mark:
Karl Mark (1818-1883) là một nhà tư tưởng vĩ đại của giai cấp vô sản thế giới. Dựa trên lý
Kết luận
Trong cuộc sống, mỗi một vấn đề khi được đặt ra nghiên cứu và làm sáng tỏ không chỉ giúp ta thấy được nguồn gốc, bản chất của vấn đề đó, mà nó còn cho ta có được cách nhìn nhận mới về vấn đề ta nghiên cứu, đồng thời giúp ta có được sự vận dụng hợp lý vấn đề đó vào cuộc sống. Đối với phạm trù lợi nhuận cũng vậy. Qua nghiên cứu về lợi nhuận ta thấy được nguồn gốc của nó là giá trị bộ phận thặng dư do lao động không được trả công của người công nhân làm ra, thấy được bản chất của nó là sự bóc lột sức lao động của những ngời làm thuê, và đồng thời tá cũng thấy được vai trò rất tích cực của nó là động lực vận động cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Việt Nam ta hiện nay đang trong công cuộc xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Vì vậy, ta không thể không nhận thức rõ được những tác động tích cực cũng như những tác động tiêu cực cuả cơ chế thị trưòng, những tác động tiêu cực của vấn đề lợi nhuận. Trên cơ sở trình độ và hiểu biết của mình, chúng ta phải hạn chế tối đa những tác động tiêu cực, phát huy những mặt tích cực để cho nền kinh tế phát triển lành mạnh, giải quyết tốt những vấn đề xã hội , phấn đấu thực hiện những mục tiêu cao cả đã đề ra. Chính vì lẽ đó, nền kinh tế thị trường ở nước ta được phát triển trên cơ sở có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: bản chất của lợi nhuận về mặt lượng chất, các bài nghiên cứu khoa học về lợi nhuận của công ty, lý luận chung về lợi nhuận, lợi tức, địa tô, kinh tế chính trị lý luận chung về lợi nhuận , lợi tức và địa tô . giả sử mình là chủ doanh nghiệp sản xuất , nhưng phải vay vốn để kinh doanh , lại phải thuê mặt bằng để làm nhà xưởng . Vậy chủ doanh nghiệp sản xuất phải có trách nhiệm gì, mặt trái của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trưởng, ý nghĩa việc nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của tiền, tiểu luận nghiên cứu về các hình thức tiền lương của một công ty, nguồn gốc bản chất và vai trò của nhà nước tiereru luận
Last edited by a moderator: