xuanhue.luckymouse
New Member
Download miễn phí Tiểu luận Ngôn ngữ học giải thích trong mẫu quan điểm động
Nhà sinh vật học nỗ lực để hiểu hết được hệ thống mối liên hệ giữa cấu trúc và chức năng trong những tổ chức sống. Rút cục các nhà sinh vật học phải giới hạn để cân nhắc đưa ra vài câu hỏi cơ bản hơn như là: chức năng thích ghi hay những nguyên nhân tiến hoá cho những bằng chứng có vẻ ít ỏi của những loại cấu trúc khác nhau thực hiện những chức năng giống nhau hay tương tự nhau hay hạn định sự đa dạng thuộc loại hình học của toàn bộ tổ chức. Trên phương diện rộng sự nghiên cứu cú pháp của chức năng loại hình học là tương tự với sự nghiên cứu giải phẫu học cũng như là sinh lý học. (Givon 1984:30).
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2014-01-29-tieu_luan_ngon_ngu_hoc_giai_thich_trong_mau_quan_d.GNURMw3Q3y.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-56805/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
hương tiện xử lý, hiểu biết cấu trúc, quan điểm ngữ dụng học của từ. Sự phát triển bản thể học, sự chuyển biến lịch đại và sự phát triển âm vị (Givon 1979: 3-4). Những đặc tính này được gọi là sự giải thích bên ngoài. Một vài kết quả không hướng tới những đặc điểm này, đặc biệt là hình thức mới của cấu trúc trìu tượng, nó không được giải thích trong quan điểm của ông: một hình thức mới chính nó sẽ không là “một học thuyết” của tổ hợp, (thái độ cơ thể học). một học thuyết nếu thiếu giải thích trong bối cảnh của tổ hợp cơ thể học thì nó không là một học thuyết. Từ cương vị một học thuyết không có sự quy chiếu cũng như đặc điểm chức năng ngôn ngữ thì tất yếu nó ở mức độ cao hơn là chủ nghĩa hình thức (Givon 1979: 6-7).Mặc dù những quan điểm của Smith và Givon thay mặt cho hướng đi đúng nhưng hướng đi đó còn gặp nhiều khó khăn trong việc tranh luận giữa hai phong cách bởi mỗi mặt giải thích cần những phạm vi khác nhau. Phong cách tạo sinh tìm chủ đề trong tâm lý học và sinh vật học, trong cấu trúc tự nhiên của thần kinh, nếu những cấu trúc này phát hiện trực tiếp sự quy chiếu với đặc điểm bên ngoài. Và như chúng ta đã theo dõi kỹ lượng xuyên suốt cuốn sách này, mặc dù loại hình hoc bắt đầu nghiên cứu cấu trúc bên ngoài sự khái quát hoá nhưng nó chứng tỏ được toàn bộ. Nó được chuyển đổi nhanh hơn những định nghĩa trìu tượng trong đó từ gốc và ngữ pháp quan trọng nhất. Hai phương cách bao gồm quan điểm trìu tượng và giải thích phần bên ngoài ở phạm vi lớn hơn hay nhỏ hơn. bởi vậy nó sẽ dễ đối chiếu hơn chính xác hơn. Sử dụng cơ cấu tổ chức chung hơn cho việc miêu tả giải thích các thuật ngữ chuyên môn của sự khái quát hoá (Greenberg 1968, 1979, Bybee 1988)
Để thay thế cách dùng tương phản của sự miêu tả và giải thích một là có thể diễn tả kết quả phân tích ngữ pháp (hay một vài loại kết quả phân tích khoa học cho đối tượng) với một khái niệm vô hướng trong các cấp độ của sự khái quát khái niêm này thường thấy ngôn ngữ học, câu trình bày có thể nói là rõ ràng hơn thường thấy hơn.
Như vậy một vài câu trình bày là giải thích cho sự khái quát hoá bậc thấp, nhưng sự miêu tả trong đối lập là khái quát hoá bậc cao Greeberg đã minh hoạ điểm này bằng ví dụ ngôn ngữ học bậc thấp: Ví dụ một sinh viên người mà vừa học tiếng Thổ Nhĩ Kỳ là nói số nhiều của Dis là Disler còn của Kus (Con chim) là Kuslar.
Ông tự hỏi tại sao từ đầu ở dạng số nhiều cộng thêm ler trong khi đó từ thứ 2 lại cộng thêm lar.
Sau đó Ông đã giải thích nguyên âm cuối của từ thứ nhất nên cộng thêm ler khi đó nguyên âm cuối của từ sau cộng thêm lar sự cộng thêm trên đã giải thích cao hơn câu hỏi phân loại từ có nguyên âm cuối -i hay - u, đúng hơn với từ Dis và Kus. Nếu anh ta hỏi cả hai câu trên thì có thể cho những câu trình bày chung hơn ở lời mời, anh ta sẽ có câu trình bày của hệ thống nguyên âm trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ (Greenberg 1968: 180-1).
Sự chuyển đổi từ nhỏ đến lớn (thông thường hơn hay giải thích rõ hơn) là yêu cầu sự chuyển đổi trong các hiện tượng kỳ lạ ở việc điều tra những từ riêng tới nguyên âm cuối, đặc biệt nguyên âm cuối đến nguyên âm cuối và tới những từ đặc biệt hơn nữa ( trước và sau). từ những yếu tố đặc biệt – Lar, Ler tới tất cả những phụ tố với a/e sự chuyển đổi như trên thường ta có thể nói chúng ta đã thành công trong việc giải thích một vài hiện tượng kỳ lạ (một phương vị tương đối ) khi ta có kết quả phân tích hiện tượng chuyển âm từ hiện tượng trìu tượng sang hiện tượng khác. Từ những điều đã phân tích và tổng hợp rồi thâu tóm khái niệm về bản chất bên trong của một hiện tượng đến bản chất bên ngoài của hiện tượng đó. Có một kết quả chung rút ra từ sự thay đổi vị trí của những loại câu hỏi được hỏi trong một chuyến bay sang trọng.
Từ cách đánh giá đó để thấy những câu hỏi ở cấp độ thấp không được dùng trong vài trường hợp để hỏi nó có thể được thấy ở cấp độ thấp của hiện tượng đã giải thích khoa học, nó có thể nhấn mạnh nên đường danh giới chung. Mà đường danh giới ấy ở phía dưới là sự miêu tả và phía trên là hiện tượng giải thích trong một khả năng nhất định. Phần lớn kết luận từ khái quát chung ấy ít thấy trong ngôn ngữ toàn dân và cả ít hơn trong hệ thống tổng thể của hậu tố luân phiên nguyên âm trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ một lần nữa kết luận chỉ ra rằng khái qúat chung không đòi hỏi sự thay đổi từ bản chất cấu trúc hiện tượng bên trong và bên ngoài.
Trong ngôn ngữ học chúng ta phân ra làm ba cấp độ chung như là sự biểu thị tiến gần hơn đến ngôn ngữ của nhân loại. Cấp độ 1 là thấp nhất, cấp độ của sự nhận xét cái cấu tạo nên nền tảng ngôn ngữ đời sống hàng ngày. Dựa vào những căn cứ và phát hiện những yếu tố cần thiết phù hợp cho cấp độ nhận xét. Cả hai đều bắt đầu từ cấu trúc ngôn ngữ thực tế làm nền tảng (cấp đoọ thứ 2 là cấp độ đích thực được định sẵn) Cấp độ thứ 2 chính xác là cấp độ cố định. Cấp độ chung nội bộ. Cấp độ thứ 3 là bên ngoài sự phổ biến tại đây biện chứng những khái niệm từ tâm lý học, sinh lý học và những lĩnh vực bên ngoài cấu trúc ngôn ngữ. Tóm lại, thông qua phân tích những góc độ phân tích chung này để thấy rõ hơn vai trò trong ngôn ngữ giải thích lịch sử phát triển chung. Chúng ta sẽ tiếp tục phát huy những cấp độ này theo gợi ý ở trên.
2. Phổ biến nội bộ: Ngôn ngữ địa phương và phía cạnh ngôn ngữ học
Không phải tất cả “phổ biến nội bộ “ là trực tiếp ước tính được những con số quan trọng trong sự phân biệt giữa phát sinh và những căn cứ. Ví dụ như : Đưa ra hiện tượng để giải thích như là cấu trúc “mệnh đề quan hệ “ trong tiếng Anh. Một là có thể so sánh cấu trúc “ mệnh đề quan hệ” với cấu trúc câu ghép khác trong tiếng Anh và tổng quát tất cả các câu ghép trong tiếng Anh. đây gần như là cấu trúc chung phổ biến nhất lựa chọn một trong hai cái một là có thể so sánh mệnh đề quan hệ tiếng Anh với cấu trúc mệnh đề quan hệ ở ngôn ngữ khác và khái quát hoá những tiểu cú liên hệ trong ngôn nngữ của loài người, đây là phong cách thuộc loại hình học cổ điển. Nhìn chung, người ta có thể nói rằng nhà loại hình học thường bắt đầu với những sự so sánh xuyên ngữ và sau đó so sánh những hiện tượng khác nhau thuộc về cấu trúc của phân loại hình học rrồi chỉ ra những mối quan hệ. Trong thể tương phản, nhà ngôn ngữ học tạo sinh thường bắt đầu với sự khái quát hoá cấu trúc bên trong ngôn ngữ và chỉ ra những thế tương liên của những sự kiện của cấu trúc bên trong và ngay sau đó tiến hành sự so sánh xuyên ngữ. Cách lập luận ưu điểm của thuộc loại hình học cho sự so sánh xuyên ngữ chính là nhà ngôn ngữ học nên di chuyển sự khái quát hoá một cách trực tiếp để nắm được ngôn ngữ loài người trong cộng đồng để chắc chắn tạo ra việc khái quát hoá phổ niệm ngôn ngữ (xem 1.2 và 6.5 để thảo luận chi tiết).
Trong thời gian dài, nó ch...