Download Tiểu luận Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong Tố tụng dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này miễn phí
MỤC LỤC
A – MỞ ĐẦU 1
B – NỘI DUNG 1
I/ Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong Tố tụng dân sự 1
II/ Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong Tố tụng dân sự 2
1, Cơ sở pháp lý 2
2, Đảm bảo cho các đương sự tự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ 2
2.1 Quyền khởi kiện, thay đổi yêu cầu, phản đối yêu cầu của đương sự 2
2.2 Quyền bình đẳng trong việc cung cấp chứng cứ, được biết chứng cứ do đương sự bên kia cung cấp, yêu cầu Tòa án tiến hành những biện pháp điều tra cần thiết 3
2.3 Quyền yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, thư ký Tòa án, người giám định, người phiên dịch 4
2.4 Quyền tham gia hòa giải 5
2.5 Quyền tham gia phiên tòa 5
2.6 Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án 6
3, Đảm bảo cho đương sự thực hiện được việc ủy quyền hay nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ 6
3.1 Quyền ủy quyền cho luật sư, bào chữa viên nhân dân hay người khác thay mặt trong tố tụng dân sự của đương sự 6
3.2 Quyền của đương sự được thay mặt trong tố tụng dân sự 6
3.3 Quyền nhờ người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự 6
4, Tòa án có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tạo điều kiện cho các đương sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ 7
III/ Trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự 7
IV/ Đánh giá 8
C – KẾT LUẬN 8
Tóm tắt nội dung:
ĐỀ BÀI: Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong Tố tụng dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này.Bài làm
A – MỞ ĐẦU
Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng được hình thành trên cơ sở hạ tầng tương ứng, muốn pháp luật phát huy được vai trò tích cực của mình trong việc định hướng sự vận động của xã hội, phục vụ được mục tiêu của nhà nước thì đòi hỏi nó phải thực tế, phù hợp với những gì đang diễn ra trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật cũng cần xây dựng được hệ thống những nguyên tắc mang tính chuẩn mực và quan trọng là ứng dụng nó vào thực tiễn một cách nhuần nhuyễn và hiệu quả. Để làm được điều đó, pháp luật nói chung và pháp luật Tố tụng dân sự nói riêng cần có sự điều chỉnh theo phương hướng mang tính khả thi nhất. Trong khuôn khổ, bài viết đề cập đến nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong Tố tụng dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này.
B – NỘI DUNG
I/ Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong Tố tụng dân sự
Các nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đó là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự. Trong tố tụng dân sự, việc thực hiện đúng các nguyên tắc này tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự được thuận lợi, ngăn chặn được những tiêu cực nảy sinh trong quá trình tố tụng, bảo đảm cho các đương sự có thể bảo vệ được quyền, lợi ích của họ trước Tòa án.
Tố tụng dân sự là một quá trình phức tạp. Đương sự chỉ có thể bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của họ. Vì vậy, bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự được pháp luật tố tụng dân sự quy định là một nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự.
II/ Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong Tố tụng dân sự
1, Cơ sở pháp lý
“Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” ( Khoản 1 Điều 56 BLTTDS)
Ngay từ những văn bản pháp luật đầu tiên của nhà nước ta như Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949, Luật TCTAND, nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự đã được ghi nhận như một nguyên tắc “then chốt” trong việc thực hiện quy trình tố tụng. Hiện nay, nguyên tắc này được kế thừa và được quy định tại Điều 9 BLTTDS. Điều luật này quy định những vấn đề cơ bản của nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự: “Đương sự có quyền tự bảo vệ hay nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.Toà án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ.”
Bên cạnh đó, Điều 58 BLTTDS cũng quy định rất cụ thể về quyền, nghĩa vụ của các đương sự khi tham gia tố tụng.
2, Đảm bảo cho các đương sự tự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ
Quyền tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án là quyền tố tụng dân sự của đương sự. Đó cũng là một nội dung quan trọng của việc bảo đảm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Thông qua việc thực hiện quyền này, đương sự đưa ra được yêu cầu, chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa án.
2.1 Quyền khởi kiện, thay đổi yêu cầu, phản đối yêu cầu của đương sự
Trước tiên, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được thực hiện ở quyền khởi kiện vụ án dân sự - một cách pháp luật cho phép mỗi người được thực hiện để đưa ra yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Việc khởi kiện này là sự khởi đầu cho các hoạt động tố tụng dân sự và là cơ sở để các đương sự thực hiện các quyền tố tụng dân sự tiếp theo. Quyền khởi kiện vụ án dân sự chính là đặc quyền pháp luật quy định cho mọi người trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích đã được thừa nhận. Nó đã được ghi nhận một cách cụ thể tại Điều 161 BLTTDS “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hay thông qua người thay mặt hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”
Tuy nhiên, để thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự cũng như các quyền tố tụng khác, đương sự phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Đó là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hay uỷ quyền cho người thay mặt tham gia tố tụng dân sự. (Theo Khoản 2 Điều 57 BLTTDS).
Đối với người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự (chưa thành niên, có nhược điểm về thể chất hay mắc bệnh tâm thần) thì cha, mẹ, người giám hộ, người đỡ đầu sẽ thay mặt tham gia tố tụng. Để bảo vệ quyền lợi cho đối tượng này, pháp luật quy định quyền khởi kiện vụ án dân sự của họ do người thay mặt thực hiện.
Tùy thuộc vào yêu cầu khởi kiện, để thực hiện được quyền năng này, đương sự còn phải thỏa mãn một số điều kiện khác như: không khởi kiện những việc đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, việc khởi kiện phải được tiến hành trong thời hiệu khởi kiện…
Tòa án xem xét đơn khởi kiện trong một thời hạn luật định, nếu thấy việc khởi kiện thỏa mãn các điều kiện thì Tòa thụ lý vụ án dân sự để giải quyết. Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện trong những trường hợp không đáp ứng đủ điều kiện khởi kiện vụ án dân sự.
Sau khi khởi kiện vụ án, đương sự có quyền: “ Rút một phần hay toàn bộ yêu cầu khởi kiện; thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện” (điểm b Khoản 1 Điều 59 BLTTDS). Quyền thay đổi yêu cầu khởi kiện của đương sự xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự nhưng đây cũng là biện pháp pháp lý cần thiết để đương sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ bởi trong nhiều trường hợp các đương sự có thể đưa ra yêu cầu không đầy đủ, không chính xác do họ không dự liệu được hết các tình huống của vụ án.
Đối với đương sự là bị đơn, để bảo đảm quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, BLTTDS quy định, họ được “ b,Chấp nhận một phần hay toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; bác bỏ toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn;
c) Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hay đề nghị đối trừ với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu”. ( Theo Điều 60 BLTTDS). Bởi đưa ra yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của mình là của mọi người có quyền và lợi ích bị xâm phạm.
Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, họ cũng được tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi íc...
Tags: NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BẢO VỆ CỦA ĐƯƠNG SỰ, nội dung nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích, Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này., nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong tố tụng dân sự