Download Nhìn lại hơn 60 năm hình thành và phát triển của các cơ quan tư pháp Việt Nam

Download miễn phí Nhìn lại hơn 60 năm hình thành và phát triển của các cơ quan tư pháp Việt Nam





Quy định của Hiến pháp về Viện kiểm sát chưa đề cập gì đến chức năng công tố mà đây lại là chức năng đặc biệt hết sức cần thiết và rất quan trọng của tiến trình tố tụng của một nhà nước. Đến Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được ban hành để cụ thể hoá, hướng dẫn thi hành các quy định của Hiến pháp tại Điều 3 có quy định: Các Viện kiểm sát nhân dân thi hành nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật bằng 6 cách, trong đó, tại điểm b, nói rõ: Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước toà án nhân dân những người phạm pháp về chính trị. Nếu hiểu điểm này của Luật là nói về chức năng công tố thì qua lời văn của điều luật có thể hiểu công tố là một trong 6 cách thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Đến Hiến pháp năm 1980, khi quy định về Viện kiểm sát, tại Điều 138 khái niệm “công tố” đã được đạo luật cơ bản ghi nhận chính thức là một trong 6 cách thực hành quyền kiểm sát việc thực hành pháp luật mà đã trở thành một chức năng độc lập cùng với chức năng kiểm sát việc thi hành pháp luật, trở thành những chức năng cơ bản của viện kiểm sát các cấp. ở Hiến pháp năm 1992, về Viện kiểm sát, Điều 138 đã được ghi nhận lại nguyên văn thành Điều 137. Phải đến lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 cuối năm 2001 thì Điều 137 mới được sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản thành một điều mới và chức năng thực hiện quyền công tố trở thành chức năng cơ bản hàng đầu của Viện kiểm sát, còn chức năng kiểm sát việc thi hành pháp luật thường vốn được xem là chức năng kiểm sát chung đã được thu gọn lại một cách cơ bản: Viện kiểm sát nhân dân “thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ”.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

60 năm những chặng đường
Nhìn lại 60 năm hình thành và phát triển của các cơ quan tư pháp Việt Nam, thực tế lịch sử cũng cho thấy, dù chỉ ở những nét chấm phá, một bức tranh khá đặc thù, rất đậm nét đặc trưng của con đường đã đi qua. Đó là con đường hoàn toàn không phải thẳng tắp, láng mịn như một con đường cao tốc mà nó khá gập ghềnh, có khi gấp khúc. Nhân dịp 60 năm, trong khuôn khổ của bài viết này, chúng ta cùng điểm qua những nét đặc trưng, có thể nói là tiêu biểu đó.
1. Những bước đi đầu tiên.
Trong những ngày đầu tiên, có đến 6 tháng, từ 19/8/1945 đến đầu tháng 2 năm sau, có thể nói chính quyền nhân dân chưa lập hệ thống toà án của riêng mình. Trước yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ban hành Sắc lệnh thành lập một số toà án quân sự để xử “các người có hành vi làm phương hại đến nền độc lập”… (Sắc lệnh số 33 thiết lập các toà án quân sự). Nhưng một Nhà nước, dù mang đầy đủ bản chất nhân dân, không thể không có hệ thống toà án của mình, ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh tổ chức các toà án và các ngạch thẩm phán gồm toà án sơ cấp (ở các quận); đệ nhị cấp (cấp tỉnh) và Toà Thượng thẩm ở ba kỳ Bắc, Trung, Nam và thẩm phán thì được tuyển lựa từ những người có hạnh kiểm tốt, chưa can án, có bằng tú tài (phổ thông trung học) mà phần đông, trong điều kiện cụ thể của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ là những viên chức của chế độ cũ. Sắc lệnh tổ chức các đoàn thể luật sư được Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành tương đối sớm (10/10/1945) với quyền bào chữa ở trước tất cả các toà án hàng tỉnh trở lên và các toà án quân sự.
2. Cải cách một bước bộ máy tư pháp.
Cùng với những bước phát triển của công cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp và cải cách xã hội (giảm tô, giảm tức, dân chủ hoá sinh hoạt xã hội), năm 1950 đi vào lịch sử nền tư pháp Việt Nam như là năm cải cách tư pháp đầu tiên (mà theo cách nói lúc bấy giờ là tạm cải cách bộ máy tư pháp): Ngày 22/5/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85 cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng. Tờ trình của Bộ Tư pháp do Thứ trưởng Trần Công Tường ký ghi rõ: tạm cải cách bộ máy tư pháp và Luật Tố tụng tiến hành (chắc là “hiện hành” N.Đ.L) trong khi chờ cải tổ toàn thể bộ máy.
Bước “tạm cải cách” được chuẩn bị theo tinh thần: Về tổ chức tư pháp, bộ máy tư pháp cần được dân chủ hoá - thành phần nhân dân cần được đa số trong việc xét xử; Hội thẩm nhân dân được ngồi xử cả việc hình lẫn việc hộ và có biểu quyết; lập Hội đồng hoà giải ở huyện có mục đích giao cho nhân dân trực tiếp phụ trách việc hoà giải tất cả các việc hộ kể cả việc ly dị… vì nhiệm vụ chính của cơ quan tư pháp không những là xét xử mà còn là hoà giải những vụ xích mích ở địa phương để bớt sự kiện tụng…; Về thẩm quyền – Việc cải cách có mục đích làm nhẹ bộ máy tư pháp để công việc xét xử được nhanh chóng và gần dân hơn…; Về tố tụng – thủ tục tố tụng cần được hợp lý hơn và giản dị hơn…
3. Hiến pháp năm 1959 với sự hoàn thành cơ bản công cuộc cải cách tư pháp thời kỳ đầu.
Hiến pháp năm 1959 được ban hành, đánh dấu một cột mốc lớn cả tiến trình phát triển ngày càng đi lên của xã hội Việt Nam. Bản Hiến pháp phản ánh bước phát triển rất đặc thù của xã hội Việt Nam: Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và chuyển qua con đường phát triển quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, vừa làm cơ sở cho cuộc đấu tranh tiếp tục giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Hiến pháp năm 1959 thể hiện rất rõ nét các đặc trưng của mô hình hiến pháp xã hội chủ nghĩa mà lúc bấy giờ rất phổ biến ở nhiều nước Châu âu, Châu á. Hiến pháp năm 1959 dành hẳn một chương - Chương VIII quy định về những nguyên tắc, quy định chung về tổ chức và hoạt động của các toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân làm cơ sở để lần đầu tiên 2 luật về tổ chức toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân được ban hành trong năm 1960. Có thể nói, với việc ban hành các luật về tổ chức toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân trong công cuộc cải cách tư pháp theo mô hình khá phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ về cơ bản đã hoàn tất. Các cơ quan tư pháp trước hết là các toà án được tổ chức theo các đơn vị hành chính – lãnh thổ: Cấp huyện, cấp tỉnh, trung ương; các toà án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, các viện kiểm sát không chỉ thực hiện chức năng công tố mà các chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức; quyền bào chữa được bảo đảm, các Bộ luật Tố tụng dân chủ được ban hành.
Điều đáng nói, việc hoàn tất cải cách tư pháp được tiến hành trong khuôn khổ xây dựng Hiến pháp mới mà một nội dung cơ bản là thiết kế một bộ máy nhà nước mới không chỉ có tư pháp mà có cả lập pháp và hành pháp, nên cách nói cải cách bộ máy nhà nước nói chung và tổ chức bộ máy tư pháp nói riêng chính thức không sử dụng, nhưng xét theo nội dung thực chất mà trước hết là tổ chức các cơ quan tư pháp, đây là một cuộc cải cách lớn.
Tất nhiên, khi nói đến Hiến pháp năm 1959, kể cả bộ máy các cơ quan tư pháp được thiết kế theo mô hình phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ là cũng nói trên đại thể. Đi vào cụ thể, có thể thấy, mô hình tổ chức bộ máy tư pháp theo Hiến pháp năm 1959 và sau đó, được cụ thể hoá trong nhiều luật, pháp lệnh vẫn có những đặc thù. Như ở nước ta, cơ quan điều tra tiếp tục mô hình có sẵn, vẫn đặt ở Bộ Công an mà sau này trong nhiều năm được gọi là Bộ Nội vụ, còn Viện kiểm sát thực hành chức năng công tố đứng ngoài Chính phủ, được tổ chức theo luật và chịu trách nhiệm trực tiếp trước Quốc hội. Đây chính là một nét đặc thù cơ bản làm cho quy trình tố tụng hình sự ở nước ta được hình thành 3 giai đoạn rõ rệt: điều tra, truy tố, xét xử. ở các nước, ngay ở Liên Xô trước đây cũng vậy, các điều tra viên thuộc biên chế các viện công tố, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của các công tố viên, từ đó, tiến trình tố tụng không tách rạch ròi thành 3 giai đoạn như ở ta mà gần như được bớt đi một và điều đáng nói, công tố viên đóng vai trò chủ động, tích cực tham gia vào quá trình điều tra, rất chủ động, tích cực duy trì công tố trước toà khi tham gia tiến hành tố tụng. ở ta, cơ quan kiểm sát gần như tách khỏi hoạt động điều tra, phải đến khi có kết luận điều tra do cơ quan điều tra chuyển sang thì kiểm sát viên mới thực sự vào cuộc và duy trì công tố trước toà. Vì vậy, khó mà tránh khỏi những trường hợp gặp sự lúng túng.
ở một số nước có sự phân biệt rất rõ giữa toà án cấp sơ thẩm và các toà án cấp trên vì đây là khâu cơ bản trong quy trình xét xử một vụ án, phải có hội thẩm nhân dân tham gia với các thẩm phán thuộc toà án sơ thẩm này do cử tri trực tiếp bầu ra theo nhiệm kỳ và cũng vì vậy, chỉ toà án sơ thẩm (cấp quận, huyện) được gọi là toà án nhân dân. ở ta, chưa có sự phân biệt rõ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top