hoangtv1989
New Member
tui vừa đọc bài báo " Đằng sau con số xuất khẩu 8 tỉ USD của khu vực FDI" , nó làm tui suy ngẫm mãi và thấy bức xúc nên xin trích ra 1 đoạn trong bài để tất cả người cùng nhau sẻ chia ý kiến.
" Về cơ bản, sản phẩm của khu vực FDI thường được chia làm ba loại. Thứ nhất là sản phẩm trung gian. Thứ hai là sản phẩm cuối cùng nhưng được tiêu thụ ở thị trường nước ngoài theo đơn đặt hàng của công ty mẹ. Thứ ba là các sản phẩm được tiêu thụ trong nước.
Với loại sản phẩm thứ nhất, các doanh nghề FDI thực chất là một công xưởng với nguyên vật liệu chính được nhập khẩu, toàn bộ giá trị của sản phẩm được đưa ra nước ngoài (xuất khẩu) để đi qua các công đoạn tiếp theo, từ đó mới hình thành giá bán.
Như vậy, về thực chất toàn bộ hoạt động của loại doanh nghề này hầu như không hạch toán lợi nhuận. Phía Việt Nam không những không thu được đồng thuế giá trị gia tăng nào mà ngược lại các doanh nghề FDI được trả thuế; thuế thu nhập doanh nghề cũng coi như không có (vì không có lợi nhuận) (2) .
Với loại sản phẩm thứ hai, doanh nghề FDI tuy có chút lãi (không đáng kể) nhưng đó là một quy trình gần như khép kín. Về hạch toán lợi nhuận phía Việt Nam không được phép biết hay tham gia gì (vì vốn của chủ doanh nghề nước ngoài), như vậy chuyện xuất khẩu được bao nhiêu cũng chẳng liên quan gì đến mình.
Với loại sản phẩm thứ ba, tuy được tiêu thụ trong nước, nhưng hầu hết các nguyên vật liệu chính đều được nhập khẩu từ bên ngoài.
học 68,3%; bột giặt 56%...
Do quá trình hạch toán lợi nhuận khép kín của các doanh nghề FDI, nên dù là tiêu thụ trong nước cũng được xem thực chất là nhập khẩu.
Ngoài ra, các doanh nghề FDI thường “gửi giá” vào vật tư, máy móc nhập khẩu, làm tăng chi phí trung gian dẫn đến lỗ. Việc này làm ảnh hưởng đến nguồn ngoại tệ trong nước.
Vậy Việt Nam kỳ vọng và được gì từ khu vực FDI?"
" Về cơ bản, sản phẩm của khu vực FDI thường được chia làm ba loại. Thứ nhất là sản phẩm trung gian. Thứ hai là sản phẩm cuối cùng nhưng được tiêu thụ ở thị trường nước ngoài theo đơn đặt hàng của công ty mẹ. Thứ ba là các sản phẩm được tiêu thụ trong nước.
Với loại sản phẩm thứ nhất, các doanh nghề FDI thực chất là một công xưởng với nguyên vật liệu chính được nhập khẩu, toàn bộ giá trị của sản phẩm được đưa ra nước ngoài (xuất khẩu) để đi qua các công đoạn tiếp theo, từ đó mới hình thành giá bán.
Như vậy, về thực chất toàn bộ hoạt động của loại doanh nghề này hầu như không hạch toán lợi nhuận. Phía Việt Nam không những không thu được đồng thuế giá trị gia tăng nào mà ngược lại các doanh nghề FDI được trả thuế; thuế thu nhập doanh nghề cũng coi như không có (vì không có lợi nhuận) (2) .
Với loại sản phẩm thứ hai, doanh nghề FDI tuy có chút lãi (không đáng kể) nhưng đó là một quy trình gần như khép kín. Về hạch toán lợi nhuận phía Việt Nam không được phép biết hay tham gia gì (vì vốn của chủ doanh nghề nước ngoài), như vậy chuyện xuất khẩu được bao nhiêu cũng chẳng liên quan gì đến mình.
Với loại sản phẩm thứ ba, tuy được tiêu thụ trong nước, nhưng hầu hết các nguyên vật liệu chính đều được nhập khẩu từ bên ngoài.
học 68,3%; bột giặt 56%...
Do quá trình hạch toán lợi nhuận khép kín của các doanh nghề FDI, nên dù là tiêu thụ trong nước cũng được xem thực chất là nhập khẩu.
Ngoài ra, các doanh nghề FDI thường “gửi giá” vào vật tư, máy móc nhập khẩu, làm tăng chi phí trung gian dẫn đến lỗ. Việc này làm ảnh hưởng đến nguồn ngoại tệ trong nước.
Vậy Việt Nam kỳ vọng và được gì từ khu vực FDI?"