Ephrem

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.Khái quát về Ngân hàng thương mại 3
2. Nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại 4
3. Các hình thức của nghiệp vụ tín dụng tài trợ Xuất Nhập khẩu 8

CHƯƠNG 2: NHỮNG THỰC TRẠNG CHUNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Tổng quan về hoạt động XNK và TTQT tại Việt Nam 21
2. Thực trạng các hình thức tín dụng tài trợ XNK tại các NHTM Việt Nam 26
3. Những hạn chế trong quá trình thực hiện tín dụng XNK 44


CHƯƠNG 3:GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM

1. Định hướng hoạt động và một số dự báo về tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam trong thời gian tới. 48
2. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu 50


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NHTM
1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm
Có nhiều khái niệm về Ngân hàng thương mại, các Ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hay vai trò của nó đối với nền kinh tế. Nếu ta dựa trên việc cung cấp dịch vụ thì “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán- và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc chúng được gọi là các “Bách hoá tài chính” (financial departement stores). (“Quản trị Ngân hàng thương mại”- Peter S.Rose).
hay dựa vào hoạt động chủ yếu của Ngân hàng, “Luật các tổ chức tín dụng” ghi “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Tóm lại, ta có thể hiểu Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt vì hoạt động kinh doanh của nó chủ yếu dựa trên một loại hàng hoá đặc biệt là tiền tệ. Ngân hàng thương mại là tổ chức hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng, cung cấp các dịch vụ ngân hàng thông qua việc nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán đối với những chủ thể kinh tế như các doanh nghiệp, chính phủ, dân cư…
Xét về chức năng, NHTM không trực tiếp tham gia sản xuất và lưu thông hàng hoá như các doanh nghiệp thông thường mà nó thực hiện chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và dịch vụ tiền tệ, tư vấn tài chính cho khách hàng…Ngân hàng kinh doanh chủ yếu không phải bằng vốn tự có mà bằng vốn của những người gửi tiền qua vai trò trung gian tín dụng, làm môi giới cho các nhà đầu tư và những người có tích luỹ. Do vậy NHTM đôi khi nắm trong tay một bộ phận lớn nhất của cải xã hội dưới dạng giá trị, không có quyền sở hữu nhưng có quyền sử dụng với những điều kiện ràng buộc. Và điều đó cũng đặt cho ngân hàng trách nhiệm vật chất đối với những chủ sở hữu thực sao cho sử dụng vốn đúng với điều kiện ràng buộc một cách hiệu quả nhất.
Về đặc điểm sản phẩm của ngân hàng, nếu các doanh nghiệp sản xuất sáng tạo ra hàng hoá hữu hình thì sản phẩm của NHTM lại mang tính phi vật chất và nguyên liệu chính là “tiền tệ”- loại nguyên liệu có tính xã hội hoá và tính nhạy cảm cao. Ngân hàng chỉ cung ứng sản phẩm dịch vụ của mình khi hợp đồng giao dịch thương mại, tín dụng hay nghĩa vụ tài chính nào đó phát sinh, vì vậy NHTM luôn bị động và phụ thuộc lớn vào khách hàng. Tính xã hội và tính nhạy cảm của tiền tệ được thể hiện qua lãi suất của ngân hàng buộc NHTM luôn luôn phải đối mặt với mức độ cạnh tranh gấp bội và những rủi ro liên quan đến quy luật biến động giá cả của tiền tệ. Thêm vào đó khó khăn trong việc tạo ra khác biệt hoá sản phẩm và dịch vụ ngân hàng khiến cho ngân hàng không tìm cách tối đa hoá lợi nhuận từ những hoạt động hiện có mà tìm “khả năng sinh lời từ quan hệ khách hàng”.
2. Nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại
2.1 Tín dụng
Tín dụng là một hệ thống các quan hệ phân phối mang tính chất có hoàn trả giữa các chủ thể kinh tế.
Sự hoàn trả của quan hệ phân phối trong tín dụng là bắt buộc và không kèm theo bất cứ một điều kiện nào, vì vậy có thể gọi quan hệ phân phối trong tín dụng là quan hệ phân phối hoàn trả không điều kiện
2.2 Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế quốc dân
Xét về bản chất, tín dụng là một loại quan hệ phát sinh từ nhu cầu thực tế của con người, với người đang có một lượng vốn đang tạm thời nhàn rỗi thì nhu cầu nảy sinh sẽ là làm cho lượng vốn nhàn rỗi đó đem lại một lợi ích nào đó cho bản thân, còn đối với những người đang tạm thời thiếu vốn, họ sẵn sàng bỏ ra một khoản chi phí phụthêm để có được lượng vốn cần thiết phục vụ cho các nhu cầu của mình. Khi hai nhu cầu này gặp nhau thì tín dụng tự nhiên hình thành, vì vậy có thể nói tín dụng là một hiện tượng khách quan.
Có thể thấy tín dụng có một số vai trò như sau:
2.2.1 Tín dụng làm tăng tính linh hoạt của nền kinh tế
Với khả năng tập trung và tích tụ vốn vào dưới sự quản lý của các trung gian tài chính, tín dụng đã làm cho sản xuất kinh doanh trong xã hội có thể dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn cần thiết hơn, vì họ có thể dễ dàng tìm đến những nguồn vốn sẵn có mà nếu không có sự tồn tại của hệ thống trung gian tín dụng, họ sẽ mất nhiều chi phí tìm kiếm. Do đó tín dụng góp phần làm tăng quy mô sản xuất và lưu thong hàng hóa, từ đó góp phần làm cho nền kinh tế có được tính linh hoạt cao hơn.
2.2.2 Tín dụng tiết kiệm chi phí lưu thong và tăng tốc độ chu chuyển vốn
Vì tín dụng làm tích tụ vốn, đồng thời thực hiện việc chu chuyển vốn chủ yếu thong qua việc chuyển khoản chứ không dùng tiền mặt nên lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư sẽ giảm đi, từ đó chi phí bỏ ra trong việc tiêu dùng tiền mặt cũng sẽ giảm đi đáng kể. Đồng thời, khi thanh toán giữa các chủ thể kinh tế không thực hiện việc trao tiền tận tay mà là sự thanh toán qua chuyển khoản ngân hàng, đặc biệt là khi thực hiện thanh toán cho những hợp đồng mua bán quốc tế, tin dụng có thể giúp cho tốc độ chu chuyển vốn tăng lên đáng kể, giảm thiểu thời gian đọng vốn.
2.2.3 Các vai trò khác
Khi không dùng tới tiền mặt mà sử dụng vốn trong các tài khoản, tín dụng có thể làm mở rộng số nhân tiền trong nền kinh tế. Bên cạnh đó hiện tượng tiền mặt hóa nền kinh tế cũng sẽ được kiềm chế.
Tín dụng cũng hút được một lượng tiền nhàn rỗi lớn trong dân cư vào các quỹ tiết kiệm, lượng tiền này sẽ được sử dụng vào những mục đích sinh lợi, do đó cũng sẽ làm cho nền kinh tế phát triển hơn.
2.3 Tín dụng Xuất - Nhập khẩu
Thương mại quốc tế phát triển, nhu cầu về thị trường tiêu thụ hàng hoá, thị trường đầu tư là vấn đề cấp bách của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Do khả năng tài chính có hạn, không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ tiền để thanh toán hàng nhập khẩu hay mua hàng xuất khẩu, từ đó cần sự giúp đỡ tài trợ của ngân hàng và hình thành quan hệ vay mượn. Ngoài việc là chỗ dựa tài chính, ngân hàng còn có thể tư vấn cho các nhà hoạt động ngoại thương về kỹ thuật nghiệp vụ.
Hình thức đơn giản đầu tiên của nghiệp vụ tín dụng XNK là ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các đơn vị nhập khẩu như cho vay để bổ sung vốn lưu động thu mua chế biến sản xuất hàng xuất khẩu theo các hợp đồng đã được ký kết, cho vay để thanh toán các nguyên liệu, hàng hoá, vật tư nhập từ nước ngoài. Từ chủ yếu cho vay ngắn hạn, các ngân hàng mở rộng cho vay trung và dài hạn để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh XNK. Ngân hàng cho vay để mua sắm máy móc thiết bị, cải tiến công nghệ, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Ngân hàng còn cho vay gián tiếp tức là đứng ra bảo lãnh để vay vốn nước ngoài cho các doanh nghiệp XNK, nhờ đó doanh nghiệp có thể vay vốn mà không cần thế chấp hay cầm cố tài sản, bảo lãnh mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu, bảo lãnh hối phiếu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng…
Ngoài ra ngân hàng cũng thực hiện một số hình thức khác như chiết khấu hối phiếu, tín dụng bao thanh toán…
Cùng với sự phát triển của trình độ kỹ thuật nghiệp vụ và sự đa dạng của các cách thanh toán quốc tế, nghiệp vụ tín dụng XNK phát triển dưới nhiều hình thức ngày càng phong phú hơn, phục vụ tích cực và hiệu quả cho hoạt động XNK.
Tài trợ của NHTM về bản chất cũng là khoản tín dụng được cấp bởi ngân hàng. Trong nhiều trường hợp ngân hàng chỉ tham gia tài trợ với một số vốn có tỷ lệ nhất định trong tổng vốn cho dự án hay hợp đồng ngoại thương, phần vốn còn lại là vốn của doanh nghiệp.
Như vậy có thể khái quát lại: “Tín dụng xuất nhập khẩu” là những khoản tín dụng cấp cho các hoạt động thương mại liên quan tới việc mua bán và thanh toán hàng hoá, dịch vụ ở phạm vi quốc tế hay những hàng hoá, dịch vụ chịu thuế xuất nhập khẩu.
Khác với nghiệp vụ tín dụng thông thường của NHTM bao gồm hoạt động cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê…thì với hoạt động tín dụng XNK, NHTM cung cấp dựa theo các hình thức thanh toán quốc tế mà doanh nghiệp lựa chọn nhằm xác định và phân tích tính rủi ro của các khoản tín dụng đó.
3. Các hình thức của nghiệp vụ tín dụng tài trợ Xuất Nhập khẩu
Tín dụng XNK của NHTM gắn liền với nghiệp vụ thanh toán quốc tế được thực hiện qua 2 loại hình chủ yếu là tài trợ bằng cách cho vay và tài trợ bằng cách bảo lãnh.
3.1 Cho vay thanh toán bằng L/C
cách thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) là một sự thoả thuận trong đó ngân hàng mở L/C đáp ứng những yêu cầu của khách hàng- người xin mở L/C cam kết hay cho phép một ngân hàng khác (ngân hàng ở nước xuất khẩu) chi trả hay chấp nhận những yêu cầu của người hưởng lợi theo đúng điều kiện và những chứng từ thanh toán phù hợp với L/C.
cách thanh toán L/C hiện nay là cách thanh toán phổ biến trong thương mại quốc tế. Nội dung cách thanh toán L/C được quy định cụ thể trong Qui tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ UCP 500 do Phòng thương mại quốc tế ICC ban hành từ năm 1994, hiện nay phiên bản UCP 600 đã có hiệu lực từ ngày 1- 1- 2007.

2.1.5. Nghiên cứu thị trường trong nước và quốc tế và phát triển thêm những hình thức tín dụng mới:
Đối với tín dụng XNK, ngoài những thông tin khách hàng cung cấp, bản thân cán bộ tín dụng và ngân hàng cũng cần xây dựng thêm những nguồn thông tin khác về thị trường XNK phục vụ cho việc thẩm định khả năng tiêu thụ, tốc độ thu hồi vốn của doanh nghiệp, từ đó xem xét thời hạn của các khoản vay. Ngoài ra hiểu biết về thị trường có thể dự báo nhu cầu của doanh nghiệp, xây dựng mục tiêu tài trợ cho ngân hàng, và khuyến nghị với khách hàng khi có những biến động thị trường.
Hiện nay, ngân hàng vẫn tập trung cho vay theo cách thanh toán L/C trong khi những nghiệp vụ mới như Factoring rất phát triển tại các ngân hàng nước ngoài lại rất ít. Mặc dù nghiệp vụ này áp dụng với những doanh nghiệp lớn nhưng đó là khách hàng mục tiêu của ngân hàng, chi nhánh nên khai thác và đẩy mạnh hình thức tín dụng này. Vì Ngân hàng sẽ có lợi như liên hệ với các tổ chức bao thanh toán ở các nước nhập khẩu, lệ phí thu về khá cao gồm lệ phí hợp đồng và lệ phí rủi ro. Ngân hàng cần mở rộng cho vay bằng ngoại tệ, tài trợ trọn gói cho khách hàng.
2.1.6. Nâng cao năng lực đội ngũ nhân viên ngân hàng, cập nhật kiến thức và thông tin về thương mại quốc tế
Một ngân hàng chỉ có thể thành công khi có nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, có nghiệp vụ chuyên môn tốt. Để mở rộng hoạt động tài trợ, ngân hàng cần có đội ngũ nhân viên nhiệt tình, có trách nhiệm, có kiến thức về thanh toán quốc tế, vận tải, bảo hiểm ngoại thương, thẩm định dự án, luật kinh tế,...Do vậy, việc tuyển chọn, đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng là một việc hết sức quan trọng
Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ tín dụng bao gồm cả trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật thương mại quốc tế và đạo đức nghề nghiệp.

2.2 Giải pháp dành cho các doanh nghiệp
Doanh nghiệp cần thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
Doanh nghiệp là một nhân tố hết sức quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Vì vậy các doanh nghiệp cần chủ động tiến hành khảo sát, đánh giá thị trường, năng lực tài chính, năng lực sản xuất của mình; chú ý tận dụng hiệu quả chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với những sản phẩm, ngành hàng nằm trong định hướng phát triển của cả nước trong giai đoạn tới để xác định cho mình chiến lược phát triển mặt hàng xuất khẩu trọng điểm, chiến lược phát triển mặt hàng xuất khẩu mới và chương trình cụ thể tiếp cận các thị trường xuất khẩu trọng điểm, tiềm năng. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần xây dựng cho mình chiến lược mở rộng liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp với nhau nhằm hợp lý hoá, chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản xấut trên cơ sở thế mạnh của mỗi doanh nghiệp, nhằm mở rộng sức sản xuất, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực theo hướng chuyên nghiệp hoá và công nghiệp hoá nhằm nâng cao năng suất lao động, qua đó gián tiếp giảm chi phí hoạt động, có chính sách cụ thể về đào tạo, tuyển dụng, sử dụng và thường xuyên đào tạo lại nguồn nhân lực; nhanh chóng tiếp cận và tiếp thu, áp dụng những kỹ năng quản lý và sử dụng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp ở các nước phát triển. Tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp, hợp lý hoá quy trình sản xuất kinh doanh nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động. Tăng cường triển khai các hệ thống quản lý sản xuất kinh doanh nhằm giảm rủi ro, giảm tỷ lệ sản phẩm kém chất lượng, tiết kiệm chi phí; khi thác hiệu quả những tiện ích của công nghệ thông tin và đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử, nâng cao hiệu quả SXKD. Doanh nghiệp cần đẩy mạnh mối liên kết giữa người sản xuất-cung cấp nguyên, vật liệu đầu vào với doanh nghiệp và các cơ quan nghiên cứu khoa học, nhằm tổ chức hiệu quả chuỗi cung ứng từ khâu sản xuất nguyên, vật liệu đầu vào đến khâu tổ chức sản xuất hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3. Một số kiến nghị với ngân hàng nhà nước
Để tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện hiệu quả hoạt động tín dụng XNK, Ngân hàng nhà nước (NHNN) nên xem xét để thực hiện một vài kiến nghị:
- Trước hết, NHNN cần có cơ chế quản lý ngoại hối phù hợp, nhằm tạo ra sự ổn định vể tỷ giá. Thời gian vừa qua, diễn biến tỷ giá giữa VNĐ và USD diễn biến tương đối phức tạp, NHNN cần thông qua các công cụ vĩ mô để có biện pháp làm bình ổn tỷ giá để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh XNK, từ đó, tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng XNK.
- NHNN phải phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ kịp thời cho mỗi ngân hàng, hạn chế rủi ro về tỷ giá nhằm đáp ứng tôt nhất nhu cầu của khách hàng.
- NHNN cần củng cố hệ thống thông tin và cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về các khách hàng cho hệ thống NHTM nói chung bằng cách tăng cường hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro. Cụ thể là chỉ đạo, đôn đốc các ngân hàng thực hiện chế độ thông tin khách hàng theo quy chế và tổ chức hoạt động thông tin tín dụng do Thống đốc NHNN ban hành, đồng thời giúp các ngân hàng cập nhập thông tin khi có biến động của khách hàng.
- NHNN cần kiện toàn cơ chế thanh tra, kiểm tra và giám sát đối với hoạt động ngân hàng, đặc biệt là tín dụng XNK theo hướng giảm can thiệp hành chính, tăng quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm của các NHTM. Những sai lầm, thiếu sót cần được xử lý nghiêm minh, đúng mức và kịp thời.
- Ngoài ra, NHNN cần tìm ra những chính sách vĩ mô phù hợp với từng thời kỳ để tạo ra sự bình ổn và tăng trưởng kinh tế. Đây là nhân tố khách quan tác động đến quy mô và chất lượng hoạt động tín dụng của các NHTM.

2.4. Một vài kiến nghị với Chính phủ:
- Chính phủ cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện môi trường pháp lý. Vì kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, nhất là liên quan đến hoạt động XNK nên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do đó, đòi hỏi phải có một môi trường pháp lý đồng bộ. Trên thực tế, nước ta gặp rất nhiều bất cập về luật pháp và các chế tài kinh tế cần sửa đổi nhanh chóng cho phù hợp với sự phát triển của đất nước.
- Chính phủ nên dành nguồn vốn thích đáng cho những ngành xuất khẩu mũi nhọn thông qua các kênh tín dụng và đầu tư. Để từ đó giúp ngân hàng khai thông được mối quan hệ tín dụng với doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cũng từ đó, đảm bảo dư nợ tín dụng lành mạnh cho ngân hàng.
- Chính phủ cần có những chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động XNK, nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng nguồn lực sẵn có trong nước, phát triển mạnh những sản phẩm, dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao.
- Đơn giản hoá các thủ tục hành chính đối với hoạt động XNK, thành lập các trung tâm thương mại để cung cấp các thông tin về thị trường XNK, các đối tác thương mại...tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia và hoạt động XNK được thuận lợi hơn.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Chính sách của việt nam với mỹ và quan hệ việt mỹ những năm đầu thế kỷ XXI, thực trạng và triển vọng Văn hóa, Xã hội 0
D Vai trò của giai cấp nông dân việt nam thực trạng và những vấn đề bức xúc đặt ra hiện nay Nông Lâm Thủy sản 0
D Cạnh tranh không lành mạnh: Thực trạng và những đề xuất xử lý vi phạm ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Đánh giá thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua và những giải pháp kiến nghị Văn hóa, Xã hội 0
D Thực trạng và những giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của xã Phú Sơn Luận văn Kinh tế 0
K Thực trạng và những tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam Kiến trúc, xây dựng 0
T Thực trạng và những giải pháp VAT Luận văn Kinh tế 0
Z Thực trạng và những giảI pháp hoàn thiện chính sách sản phẩm của công ty giầy Thượng Đình Công nghệ thông tin 0
K Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Bắc Kạn và thực trạng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong những năm gần đây Luận văn Kinh tế 2
T Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản vào mỹ qua những năm qua Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top